Lôi Phong - Sản xuất và bán lẻ đồ thờ cúng như bàn thờ, đèn thờ, khung ảnh thờ, bàn thờ, tượng phật

Thiền Phái Trúc Lâm và những nét đặc trưng bạn nên biết

Thứ Bảy, 12/10/2024
Trần Xuân Bách

Thiền Phái Trúc Lâm là một trong những thiền quan trọng ở Việt Nam, xuất phát tại núi Yên Tử. Sự ra đời của tông phái là một trong những minh chứng rõ nét của sự phát triển Phật giáo nước ta và đang được người Việt đương thời tiếp thu. Bài viết sau Loiphong.vn sẽ mang tới thông tin chi tiết giúp bạn nắm rõ hơn về vấn đề này.

1. Tổng quan sự hình thành Thiền Phái Trúc Lâm

Thiền Phái Trúc Lâm là một trong những dòng thiền mang đậm dấu ấn văn hoá Đại Việt. Đỉnh cao phát triển của tư tưởng nhập thế, đạo và đời không tách rời nhau. Chủ trương của dòng thiền là nhập thế tích cực để phật tử có thể xây dựng đời sống dựa theo đạo lý Thiền tông và làm tròn trách nhiệm của một công dân.

Đầu thế kỷ XIII, ba thiền phái là Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Tháo Đường cùng với Vô Ngôn Thông đã dần dần sát nhập vào làm một. Thiền sư Thường Chiếu được xem như là người khởi đầu của sự tổng hợp giữa 3 thiền Phái này và là cầu nối giữa Phật giáo đời Lý với đời Trần.

Thiền Phái Trúc Lâm được hình thành vào đời nhà trần. Điều Ngự Giác Hoàng hay còn là nhà vua Trần Nhân Tông đã thành lập nên thiền phái với ý định thống nhất Phật giáo Đại Việt. Lúc này Thiền Phái Trúc Lâm nổi tiếng với 3 vị tổ đời đầu gồm có Trúc Lâm Đầu Đà, Tôn Giả Pháp Loa cùng với Tôn Giả Huyền quang

Phái thiền Trúc Lâm bắt nguồn ở núi Yên Tử, vì thế người xưa mới gọi là Trúc Lâm, Yên Tử. Thiền Phái này chịu rất nhiều ảnh hưởng bởi thượng sĩ Tuệ Trung. Đồng thời sự ra đời của dòng thiền có ý nghĩa to lớn, đáp ứng nhu cầu lịch sử của dân tộc là xây dựng nên đất nước Đại Việt độc lập, tự chủ.

Thiền Phái Trúc Lâm mang đậm dấu ấn văn hoá Đại Việt

Thiền Phái Trúc Lâm mang đậm dấu ấn văn hoá Đại Việt

2. Quá trình phát triển của Thiền Phái Trúc Lâm

Sử liệu thiền tông ở Việt Nam bị thất lạc nhất nhiều nên quá trình phát triển của Thiền Phái Trúc Lâm chỉ được sơ lược thông qua một vài sự kiện đặc biệt. Sự ra đời của thiền phái đã giúp đánh dấu bước chuyển vô cùng quan trọng của quá trình bản địa hóa Phật Giáo. Quá trình này thể hiện rằng Phật giáo đã chính thức bén rễ và được người dân Việt Nam tiếp thu, phát triển.

Theo dòng truyền Yên Tử, Hương Vân Đại Đầu Đà, thế hệ thứ 6 của dòng Yên Tử đã thống nhất thiền phái Vô Ngôn Thông, Thảo Đường với Tỳ Ni Đa Lưu Chi trở thành một, gọi là Thiền Phái Trúc Lâm. Tuy nhiên khi tìm hiểu xâu xa thì người có công gây dựng nên thiền phái chính là nhà vua Trần Thái Tông. Nhưng người đã giúp rạng danh cho thiền phái lại là Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Đây là dòng thiền Phật giáo đầu tiên được chính người Việt làm tổ.

Sự phát triển của thiền phái từ đầu thế kỷ XIII tới giữa thế kỷ XIV gắn liền với 8 vị thiền sư gồm Thông Thiền, Tức Lự, Ứng Thuận Tức Lự, Tiêu Dao, Huệ Trung, Pháp Hoa, Trúc Lâm, Huyền Quang. Sau khi tổ Huyền Quang mất thì không còn thấy tài liệu nói tới thiền phái này.

Khoảng thế kỷ XVII, có tài liệu đã ghi chép lại một thiền sư thời Hậu Lê tên là Hương Hải được bổ nhiệm lên làm tri phủ Triệu Phong vào năm 1652. Năm 1655 ngài đã xin từ quan và xuất gia cùng với thiền sư Viên Cảnh. Có một số nơi ghi chép lại ngài Hương Hải chính là thiền sư của Thiền Phái Trúc Lâm và tạo nên một sự ảnh hưởng lớn thời kỳ bấy giờ.

Nửa cuối thế kỷ XVII, ngài Chân Nguyên Tuệ Hải đã giúp làm sống lại tinh thần của thiền phái Trúc Lâm. Ngài cũng là vị tác giả cuốn Thiền Tông bản hạnh, nói về cuộc đời tu hành và ngộ đạo của 5 vị vua nhà Trần. Sau đó thì thiền phái lại tiếp tục lần nữa rơi vào giai đoạn trầm lắng.

Thiền Phái ra đời đánh dấu bước ngoặt lớn của quá trình bản địa hoá Phật Giáo

Thiền Phái ra đời đánh dấu bước ngoặt lớn của quá trình bản địa hoá Phật Giáo

3. Tìm hiểu về Tam Tổ Trúc Lâm

Tam Tổ Trúc Lâm bao gồm có 3 vị đó là nhà vua Trần Nhân Tông, đệ nhị tổ Pháp Loa với đệ tam tổ Huyền Quang. Trong đó Trần Nhân Tông là một bậc sư tổ, đạo hiệu Hương Vân Đại Đầu Đà hay còn gọi là Đại Đầu Đà. Ngài xuất gia năm 1299 tại ngôi chùa Hoa Yên sau khi đã nhường ngôi. Đây là một trong số những người đặt nền móng cho Thiền Phái Trúc Lâm.

Thiền sư Trần Nhân Tông đã được Huệ Tuệ truyền đạt giới pháp. Ngài Huệ Tuệ chính là tổ thứ 5 sơn môn Yên Tử, ngài chịu sự ảnh hưởng bởi dòng Lâm Tế Trung Hoa. Nơi đây có nhiều vị thiền sư có tiếng tăm như Tuệ Trung Thượng Sĩ, nhà vua Trần Nhân Tông. Trong đó vua Trần Thái Tông đã mở ra dòng thiền mới cho đất nước Việt Nam và ngài cũng trở thành người lãnh đạo của giáo hội đầu tiên nước ta.

Vua Trần Nhân Tông là người đặt nền móng cho Thiền Phái Trúc Lâm

Vua Trần Nhân Tông là người đặt nền móng cho Thiền Phái Trúc Lâm

Vị tổ thứ hai trong Thiền Phái Trúc Lâm chính là đệ nhị Tổ Pháp Loa. Đây là một người thông minh, có nhiều am hiểu về mặt thiền học và kỹ năng tổ chức những hoạt động Phật Gia. Năm 21 tuổi Ngài xuất gia và được nhà vua Trần Nhân Tông chọn lãnh đạo giáo hội Trúc Lâm tại Yên Tử. Sau khi kế nhiệm ngài đã được giao trọng trách đứng đầu của giáo hội và đưa ra những cải cách đáng kể về việc tổ chức hoạt động Phật sôi nổi.

Trong suốt quá trình lãnh đạo, Ngài đã thu hút được lượng tăng sĩ, phật tử tại gia tăng lên rất đáng kể. Trải qua 20 năm, ngài đã săn khác quyền Đại Tạng Kinh với độ dài hơn 500 quyển. Cùng với đó là sự xuất hiện của nhiều ngôi chùa, nổi tiếng như chùa Quỳnh Lâm, Thanh Mai, Báo Ân và đang điều hành hơn 3000 đệ tử tới cầu pháp, đắc pháp.

Vị tổ thứ 3 của Thiền Phái Trúc Lâm tên là Huyền Quang. Ngài từng làm quan ở trong triều và sau khi từ chức tìm tới con đường tu hành. Ngài tu hành muộn hơn ngài Pháp Loa là tròn 30 tuổi.

Huyền Quang có tên là Lý Đạo Tái, người của tỉnh Bắc Ninh. Năm 51 tuổi Ngài đã xuất gia và theo học thiền cùng với nhà vua Trần Nhân Tông. Đây được gọi là đệ tam tổ của Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử.

Ngài Pháp Loa nổi danh với tài năng thống trị và lãnh đạo, xây dựng giáo hội. Còn đối với ngài Huyền Quang đây là tác giả văn học lớn của nền Phật giáo và văn học thời Trần. Sự ra đời của tam tổ đã giúp đưa thiền phái trở nên phát triển hơn và trở thành một trong những biểu tượng tinh thần người dân Việt.

Tam tổ của Thiền Phái Trúc Lâm là vua Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang

Tam tổ của Thiền Phái Trúc Lâm là vua Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang

4. Đặc điểm tư tưởng và tinh thần của phái thiền Trúc Lâm

Tư tưởng, tinh thần của thiền phái Trúc Lâm được tóm tắt thông qua những nội dung cơ bản chúng tôi tổng hợp dưới đây.

  • Phật sóng trong tâm, nếu siêng năng và khéo tu thì dù ở đâu mọi người cũng sớm đạt thành tựu.
  • Những ai xuất gia được vô cùng tốt, nếu chưa vẫn có thể vừa tu hành vừa tới những chỗ ngộ đạo để đảm nhiệm trách nhiệm với nước và thế gian.
  • Thiền Phái Trúc Lâm là một trong những dòng thiền nhập thế. Vì vậy sau khi đại ngộ người đời bỗng dưng tìm tới, dựa vào đây mà giáo hoá. Tại đời nhà vua Trần, việc vừa làm vua, vừa giáo hoá được nhân dân được đánh giá là một mức độ nhập thế cao.
  • Tư tưởng của thiền phái là cư trần lạc đạo, sau khi bỏ ngai vàng để vào núi tìm đạo, nhà vua Trần Thái Tông đã được thức tỉnh rằng bên trong núi vốn dĩ không tồn tại Phật. Thay vào đó chỉ có trong tam, tâm lặng mà biết thì đây mới đích thị là Phật.
  • Thiền phái hành đạo giúp đời, mọi giáo pháp cũng được xuất phát từ khuynh hướng nhập thế. Qua đây quan trọng việc hoàng dương Phật pháp nhưng vẫn đề cao tính dân tộc. Phái thiền Trúc Lâm được phát triển dựa vào nền tảng tư tưởng của Thiền Tông, phát triển bởi Thảo Đường, Vô Ngôn Thông và Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Thiền phái có sức ảnh hưởng khá lớn đối với tư tưởng của dân tộc Việt.

Tư tưởng của thiền Phái nêu rõ Phật sống tại tâm, khéo tu thì sớm sẽ đạt được thành tựu

Tư tưởng của thiền Phái nêu rõ Phật sống tại tâm, khéo tu thì sớm sẽ đạt được thành tựu

Những thông tin về Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử được chúng tôi tổng hợp ở trên. Có thể thấy đây là một trong những thiền phái riêng biệt của nước ta. Mặc dù phải trải qua bao nhiêu năm thăng trầm thế sự nhưng Trúc Lâm vẫn luôn mở rộng và phát triển mạnh mẽ. Để biết thêm nhiều thông tin hữu ích về các tông phái khác hãy truy cập Loiphong.vn ngay nhé.

Viết bình luận của bạn
Danh mục
Chat messenger