Lôi Phong - Sản xuất và bán lẻ đồ thờ cúng như bàn thờ, đèn thờ, khung ảnh thờ, bàn thờ, tượng phật

Thích Trí Tịnh - Ngọn đèn sáng ngời của Phật giáo Việt Nam

Thứ Sáu, 20/09/2024
Trần Xuân Bách

Hòa thượng Thích Trí Tịnh suốt đời cống hiến cho sự nghiệp hoằng pháp, giảng dạy và lãnh đạo nhiều tổ chức Phật giáo. Ngài nổi tiếng với công việc dịch thuật kinh điển Đại Thừa, góp phần quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật ở Việt Nam. Với trí tuệ sâu sắc cùng tấm lòng từ bi rộng lớn, Hòa thượng Thích Trí Tịnh đã để lại nhiều di sản “vô giá” cho thế hệ sau.

1. Tiểu sử về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh

Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh tên khai sinh là Nguyễn Văn Bình, tên thường gọi là Nhựt Bình; sinh ngày 2/9 năm Đinh Tỵ (tức ngày 17/10/1917) tại làng Mỹ An Hưng thuộc quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc nay thuộc xã Mỹ An Hưng, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp.

Cố Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh

Cố Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh

Hòa thượng Thích Trí Tịnh sinh ra và lớn lên trong gia đình nông thôn, cha là ông Nguyễn Văn Cân, mẹ là bà Nguyễn Thị Truyện. Gia đình Ngài có 7 anh em, 2 trai và 5 gái; đại lão hòa thượng Thích Trí Tịnh là người con thứ 7 trong gia đình.

Gia đình Ngài có nề nếp đạo đức vững chắc, kính tin Tam Bảo. Ngài từ nhỏ đã mô côi cha mẹ, khi lên 3 tuổi cha mất, đến năm 7 tuổi thì mẹ mất. Ngài sống cùng với anh chị và học hết chương trình Trung học Pháp tại quê nhà.

2. Cuộc đời và hành trình tu học của Hòa thượng Thích Trí Tịnh

2.1. Xuất gia học đạo

Nhờ gieo cân lành từ nhiều kiếp, sớm được giác ngộ cõi đời là huyễn, thế sự phù du nên sau một khoảng thời gian đi chiêm bái khắp nơi năm 1937 Nguyễn Văn Bình lên núi cấm, đến chùa Vạn Linh xin Trụ trí Pháp húy Hồng Xứng cầu thế độ xuất gia. Khi thấy, Nguyễn Văn Bình, Tổ liền ấn chứng “Các ông đừng khinh ông này, đời trước ông đã từng làm Hòa thượng…”. Sau khi được Tổ cho phép xuất gia, ban Pháp húy là Nhựt Bình, hiệu Thiện Chánh, tiếp nối dòng pháp Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 41.

Sau đó, Ngài đã đi tham học Phật pháp với chư sơn Thiền đức ở trong và ngoài tỉnh, lần lượt nghiên cứu tài liệu Phật học in trong Tạp chí Từ Bi Âm, tham học tại chùa Bích Liên, Liên Tôn ở Bình Định.

Hòa thượng Thích Trí Quảng bên Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh

Hòa thượng Thích Trí Quảng bên Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh

Năm 1940, Ngài cùng với quý Hòa thượng Thích Thiện Hòa ra Huế học. Nhựt Bình ban đầu theo học lớp Trung đẳng tại Phật học đường Tây Thiên, sau đó học lớp Cao đẳng tại Phật học đường Báo Quốc.

Năm 1941, Thiện Chánh đăng đàn thọ Sai di giới tại chùa Quốc Ân và được Sư cụ Trí Độ đặt cho Pháp hiệu là Trí Tịnh.

Sau khi mãn khóa Cao đẳng Phật học năm 1945, Trí Tịnh trở về miền Nam tiếp tục con đường tu học và hành đạo.

2.2. Hành trình Hoằng pháp

Năm 1945, Hòa thượng Thích Trí Tịnh cùng với Thích Thiện Hoa đã thành lập Phật học đường Phật Quang ở Trà Ôn tỉnh Cần Thơ (nay thuộc tỉnh Vĩnh Long). Hòa thượng Thích Thiện Hoa làm giám đốc và Ngài làm Đốc giáo kiêm Giáo thọ.

Năm 1945, Ngài được đăng đàn thọ Tỳ kheo và Bồ tát giới tại chùa Long An, Sa Đéc do Hòa thượng Chánh Quả làm đàn đầu Hòa thượng.

Năm 1948, Thích Trí Tịnh về Sài Gòn, thành lập Phật học đường Liên Hải ở chùa Vạn Phước, xã Bình Trị Đông, huyện Long Hưng Thượng, tỉnh Chợ Lớn (nay là huyện Bình Chánh, TP Hồ Chí Minh).

Năm 1950, Hòa thượng nhập thất tịnh tu tại chùa Linh Sơn, Vũng Tàu.

Năm 1951, Ngài cùng với Hòa thượng Thích Thiện Hòa sáp nhập 3 Phật học đường Liên Hải, Mai Sơn, Sùng Đức thành Phật học đường Nam Việt, đặt trụ sở ở chùa Ấn Quang, Quận 10, tỉnh Chợ Lớn (nay thuộc Quận 10, TP Hồ Chí Minh).

Từ năm 1951-1956, Hòa thượng Thích Trí Tịnh tham gia Ban Giảng huấn và giảng dạy cho Lớp Cao đẳng Phật học.

Năm 1953, khởi công xây dựng chùa Vạn Đức ở Thủ Đức.

Năm 1955, Thành lập Hội Cực Lạc Liên hữu ở chùa Vạn Đức do Ngài làm Liên trưởng, thượng tọa Thích Huệ Hưng làm Liên phó.

Năm 1957, trong đại hội Giáo hội Tăng già Nam Việt Ngài được cử làm Trị sử phó kiêm Trưởng ban Giáo dục Giáo hội Tăng già Nam Việt. Đồng thời, hợp tác với Hòa thượng Thích Thiện Hoa để mở các khóa Như Lai Sứ Giả ở chùa Pháp Hội, chùa Dược Sư, chùa Tuyền Lâm,...để đào tạo trụ trì và giảng sư cho Giáo hội.

Năm 1959, tại Đại hội Giáo hội Tăng già toàn quốc Việt Nam kỳ II ngày 10,11/9 ở chùa Ấn Quang, Ngài đã được Đại hội suy cử làm Trị sự phó Giáo hội Tăng già toàn quốc Việt Nam.

Năm 1960 - 1962, Hòa thượng Thích Trí Tịnh làm Giới Luật sư trong Đại Giới đàn, tổ chức ở chùa Pháp Hội, Ấn Quang,...để truyền trao giới pháp Cụ túc cho các chư Tăng.

Năm 1962, Ngài được Giáo hội Phật giáo Trung phần cung thỉnh vào cương vị Phó Viện trưởng Phật học Viện Trung phần Hải Đức ở Nha Trang.

Năm 1964, Ngài làm Trưởng đoàn Đại biểu Giáo hội Tăng già Nam Việt tham dự Đại hội Thống nhất Phật giáo Việt Nam tổ chức tại chùa Xá Lợi từ ngày 30,31/12/1963 và ngày 1/1/1964. Tại Đại hội, Hòa thượng Thích Trí Tịnh được suy cử vào vị trí Tổng vụ Trưởng Tổng vụ Tăng sự.

Cùng năm 1964, Hòa thượng Trí Tịnh đảm nhiệm cương vị Tuyên Luật sư trong Đại Giới đàn Quảng Đức, được tổ chức tại Việt Nam Quốc Tự - Sài Gòn

Năm 1965, Ngài đảm nhiệm cương vị Yết ma Tiểu giới đàn Quảng Đức ở Phật học viện Huệ Nghiêm Gia Định và Tuyên Luật sư Đại Giới đàn Từ Hiếu - Thừa Thiên Huế.

Năm 1966, Ngài là Tuyên Luật sư Đại Giới đàn Quảng Đức ở Phật học viện Huệ Nghiêm.

Năm 1966 - 1968, Hòa thượng Thích Trí Tịnh được suy cử vào vị trí Chánh Thư ký Viện Tăng Thống tại Đại hội kỳ II Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất.

Từ năm 1968 - 1971, Ngài tham gia Ban Giảng huấn Phật học viện Huệ Nghiêm và giảng dạy Phật pháp cho lớp Chuyên khoa Phật học.

Năm 1969, Hòa thượng đảm nhận cương vị Khoa trưởng Phân khoa Phật học ở Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn đến năm 1975.

Năm 1971, sau khi Giáo hội thành lập Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm, Ngài được cử làm Viện trưởng từ năm 1971 - 1991.

Năm 1973, Hòa thượng Thích Trí Tịnh được cử làm Thành viên Hội đồng Giáo phẩm Trung ương trong phiên họp của Hội đồng Giáo phẩm Trung ương. Ngày 5/7/1973, Ngài được cử làm Chủ tịch Hội đồng phiên dịch Tam tạng thuộc Viện Tăng Thống.

Cũng trong năm 1973, Ngài được tấn phong Hòa thượng tại Đại hội Giáo hội Trung ương kỳ 4 và được suy cử cương vị Phó viện trưởng Viện Hóa đạo, GHPGVNTN.

Năm 1974, Ngài được Hòa thượng Thích Thiện Hòa cử làm Cố vấn Hội đồng Quản trị tổ đình Ấn Quang và các cơ sở trực thuộc tổ đình.

Năm 1975, Ngài được Hội đồng Giáo phẩm Trung ương cử làm Trưởng ban Kiến thiết Pháp Bảo Viện ở xã Linh Xuân Thôn, Thủ Đức Gia Định.

Năm 1976, Hòa thượng được cử làm Tuyên Luật sư và Chánh Chủ khảo trong Đại Giới đàn Thiện Hòa được tổ chức ở chùa Ấn Quang.

Đầu xuân Canh Thân năm 1980, khi đất nước hoàn toàn độc lập, Bắc - Nam thống nhất một nhà; mọi phương diện từ kinh tế, xã hội, chính trị,...đều thống nhất trong phạm vi cả nước. Và đó cũng cơ duyên cho Phật giáo Việt Nam thống nhất một mối.

Trong phiên họp hiệp thương của chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức, Cư sĩ của Tổ chức giáo hội, Hệ phái Phật giáo được tổ chức ở TP Hồ Chí Minh đã thảo luận vấn đề thống nhất Phật giáo nước nhà. Kết quả, một ban Vận động Thống Nhất Phật giáo đã ra đời do Hòa thượng Thích Trí Thủ làm Trưởng ban và Ngài được cử làm Phó ban Vận động kiêm Trưởng Tiểu ban Nội dung.

Ngày 4 - 7/11/1981, tại Hội nghị Đại biểu Thống nhất Phật giáo Việt Nam, tổ chức tại Thủ đô Hà Nội, Hòa thượng Thích Trí Tịnh được suy tôn là Thành viên Hội đồng Chứng minh, suy cử vị trí Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng Trị sự kiêm Trưởng Ban Tăng sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Năm 1982, Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh được cử làm Trưởng Ban Trị sự Thành hội Phật giáo HCM đến năm 1987 tại Đại hội Đại biểu Phật giáo TP HCM nhiệm kỳ I.

Tháng 4/1984, Hòa thượng Thích Trí Tịnh được suy cử Quyền Chủ tịch Hội đồng Trị sự, Chủ tịch Hội đồng trị sự nhiệm kỳ II và những nhiệm kỳ tiếp theo cho đến khi về với cõi Phật.

Từ năm 1984 - 2013, Ngài được cung thỉnh làm Đàn Đầu Hòa thượng Đại Giới đàn đầu tiên và giới Giới đàn tiếp theo của Thành hội Phật giáo HCM được tổ chức ở chùa Ấn Quang.

Năm 1992, tại Đại hội kỳ III, Ngài được suy tôn ngôi vị Phó Pháp chủ kiêm Giám luật Hội đồng Chứng minh của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Năm 2004, Hòa thượng đảm nhận cương vị Đàn đầu Hòa thượng Đại giới đàn Trí Tấn do Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Bình Dương tổ chức.

Hòa thượng Thích Trí Tịnh được Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Bà Rịa - Vũng Tàu cung thỉnh suy tôn vị trí Hòa thượng Đàn đầu truyền giới Tỳ kheo tại các Đại giới đàn Thiện Hòa I (năm 1993), Thiện Hòa III (năm 2000), Thiện Hòa IV (năm 2003), Thiện Hòa V (năm 2006), Thiện Hòa VII (năm 2013).

3. Hòa thượng Thích Trí Tịnh viên tịch

Hòa thượng Thích Trí Tịnh dành trọn cuộc đời cống hiến cho sự nghiệp hoằng pháp, góp công sức to lớn trong công cuộc chấn hưng, thống nhất Phật giáo; bảo vệ và xây dựng khối đại đoàn kết, phụng sự đất nước. Ngài là một bậc tôn sư khả kính, có nhiều công lao giáo dục và dìu dắt hàng trăm đệ tử trưởng thành.

Khi hạnh nguyện hoằng dương Phật pháp, tế độ chúng sanh của Ngài đã viên mãn thì cũng là lúc Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh trở về Tây Phương lúc 9 giờ 15 phút ngày 28/3/2014 (tức ngày 28/2 năm Giáp Ngọ). Trụ thế 98 năm, hạ lạp 69 năm.

4. Những đóng góp, di sản của Hòa thượng Thích Trí Tịnh

4.1. Di sản biên soạn, dịch thuật sách

Dù bận rộn với nhiều công việc nhưng Hòa thượng Thích Trí Tịnh vẫn dành thời gian để dịch kinh, biên soạn sách. Những tác phẩm Hòa thương đã biên soạn trở thành di sản quý giá cho Phật tử và Phật giáo Việt Nam.

  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa: trọn bộ 7 quyển
  • Kinh Hoa Nghiêm: 80 quyển
  • Kinh A Di Đà
  • Kinh Đại Bát Niết Bàn: 40 quyển
  • Kinh Đại Bát Nhã: 27 quyển
  • Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật: 1 quyển
  • Kinh Đại Bảo Tích + Đại Tập: 120 quyển
  • Kinh Phổ Hiền hạnh nguyện: 1 quyển
  • Kinh Địa Tạng bản nguyện: 3 quyển
  • Kinh Tam Bảo: 01 quyển
  • Tỳ kheo giới : 01 quyển
  • Bồ Tát giới bản: 01 quyển
  • Kinh Pháp Hoa cương yếu: Tóm tắt
  • Kinh Pháp Hoa thông nghĩa: Tóm tắt
  • Cực Lạc liên hữu tập: 01 quyển
  • Đường về Cực Lạc: Trọn bộ
  • Ngộ tính luận: 01 quyển

4.2. Công cuộc xây dựng

Năm 1995, Ngài khởi công xây dựng lại chùa Vạn Linh và tháp Tổ Hồng Xứng ở Núi Cấm huyện Tịnh Biên tỉnh An Giang.

Năm 2000, với tư cách là Chủ tịch Hội đồng trị sự GHPGVN, Hòa thượng Thích Trí Tịnh đã ký quyết định thông qua dự án và bổ nhiệm Ban Trùng tu cơ sở Văn phòng II Trung ương Giáo hội thiền viện Quảng Đức ở Quận 3 TP HCM.

Năm 2001, Ngài trùng tu giảng đường chùa Vạn Phúc, Phật đài Quan Âm, thư viện, Thiền thất, phòng sách,...

Năm 2002, là chủ đầu tư xây dựng lại cơ sở Văn phòng II Trung ương Giáo hội - Thiền viện Quảng Đức ở Quận 3.

Năm 2004, khởi công xây dựng lại chánh điện, nhà Tổ chùa Vạn Đức với quy mô lớn, xứng đáng là cơ sở giáo hội tại địa phương.

4.3. Các tặng thưởng khác

Hòa thượng Thích Trí Tịnh đảm nhận nhiều vị trí, cương vị khác nhau trong quá trình hoằng pháp như Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Đệ nhất Phó Pháp chủ kiêm Giám luật Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN), Chủ tịch Hội đồng trị sự GHPGVN, Trưởng ban Tăng sự TW GHPGVN, Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQ VN TPHCM, Viện chủ chùa Vạn Đức, Viện chủ chùa Vạn Linh,…

Với những đóng góp to lớn cho nền Phật giáo nước nhà, Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh được nhà nước trao tặng nhiều bằng khen, huân chương như:

  • Huân chương Hồ Chí Minh.
  • Huân chương Độc Lập hạng Nhất.
  • Huân chương Vì sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân.
  • Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ.
  • Bằng Tuyên dương Công đức của Giáo hội Phật giáo Việt Nam
  • ...và nhiều phần thưởng cao quý khác

Cả cuộc đời Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh dành trọn cho Phật giáo Việt Nam. Những đóng góp của Ngài là những di sản quý giá để Phật tử và chúng sanh học tập, noi gương. Theo dõi loiphong.vn để cập nhật thêm nhiều thông tin hữu ích khác!

Viết bình luận của bạn
Danh mục
Chat messenger