Nguyễn Trường Tộ
Nguyễn Trường Tộ là một người thông minh, học giỏi được truyền tụng là “Trạng Tộ”. Là người hiểu biết sâu rộng trong nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật nên trong ông sớm hình thành tư tưởng canh tân đất nước. Dù không được triều đình Huế trọng dụng nhưng lòng Nguyễn Trường Tộ vẫn mong phò vua, cứu dân.
1. Nguyễn Trường Tộ trong vòng xoáy thời cuộc đầy biến động
Nguyễn Trường Tộ (1830 - 1871) là một danh sĩ, kiến trúc sư, nhà cải cách xã hội Việt Nam ở thế kỷ 19. Xuất thân trong một gia đình công giáo, cha làm nghề thuốc Đông y tại làng Bùi Chu (nay thuộc xã Hưng Trung huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An). Nhà nghèo nhưng với bản tính thông minh, học hành chăm chỉ nên được mọi nguyền truyền tụng là “Trạng Tộ”. Thế nhưng, ông lại không đỗ đạt gì có thể vì ông là người công giáo nên không được đi thi hoặc bản thân ông không muốn đi theo con đường khoa cử.
Nguyễn Trường Tộ trong vòng xoáy thời cuộc đầy biến động
Sau khi thôi học, Nguyễn Trường Tộ mở trường dạy Hán ngữ tại nhà rồi được mời dạy chữ Hán trong Nhà chung Xã Đoài (nay thuộc xã Nghi Diên, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An). Tại đây, ông gặp được Giám mục người Pháp Gauthier (tên Việt là Ngô Gia Hậu, nhận nhiệm vụ về Xã Đoài năm 1846) dạy cho tiếng Pháp và giúp tìm hiểu về các môn khoa học thường thức của phương Tây.
Nguyễn Trường Tộ là một trong những trí thức người Việt có cơ hội tiếp xúc với nhiều thành tựu văn minh, kỹ thuật phương Tây. Chính những điều đó đã tác động mạnh mẽ tới suy nghĩ của ông. Bước vào tuổi 30, Nguyễn Trường Tộ đã có vốn kiến thức sâu rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau như chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật. Ông là người có hoài bão lớn, khát khao canh tân đất nước.
2. Khát vọng canh tân đất nước
Đầu tháng 2/1861, Nguyễn Trường Tộ nhận làm “từ dịch” (phiên dịch các tài liệu chữ Hán) cho thực dân Pháp. Ngày 29/11/1861, Đô đốc Louis-Adolphe Bonard lên thay Đô đốc Léonard Charner và xua quân mở rộng cuộc chiến. Thấy vậy, Nguyễn Trường Tộ xin thôi việc.
Sau khi thôi việc, Nguyễn Trường Tộ dồn hết tâm trí vào việc soạn thảo kế hoạch giúp nước. Với vốn kiến thức sâu rộng, tháng 5/1863 Trạng Tộ đã thảo xong 3 bản điều trần gửi lên triều đình Huế đó là “Tế cấp luận”, “Giáo môn luận” và “Thiên hạ phân hợp đại thế luận”. Bên cạnh đó còn có bài “Trần tình” gửi lên để giãi bày tâm tư, hoàn cảnh của mình vì sợ triều đình Huế nghi ngờ ông đã từng gần gũi với giáo sĩ Pháp, làm việc cho quân Pháp. Nhưng tất cả đều không được phúc đáp.
Đầu năm 1864, ông gửi cho đại thần Trần Tiễn Thành bản điều trần để thuyết phục triều đình Huế nên tạm hòa với Pháp để mở rộng bang giao.
Khát vọng canh tân đất nước của Nguyễn Trường Tộ
Tháng 10 âm lịch năm Tự Đức thứ 23 (1870), Nguyễn Trường Tộ gửi thư lên triều đình đề nghị lập lãnh sự ở Sài Gòn và sứ quán ở Pháp để nắm bắt tình hình. Cùng năm đó, tháng 11 ông xin được vào Nam tổ chức đánh úp quân Pháp để thu hồi 6 tỉnh Nam Kỳ nhân lục Pháp đang thua Phổ (Đức) và cách mạng Pháp đang nổi dậy.
Đầu năm 1871, Nguyễn Trường Tộ nhận lệnh cấp tốc ra Huế với lý do “đưa học sinh đi Pháp” nhưng thực tế là bàn bạc với vua Tự Đức về phương lược quân sự và ngoại giao mà ông đã đề cập tới trong các bản điều trần gửi cho triều đình vào cuối năm 1870. Sau khi bàn tính, tính đi tính lại nhưng triều đình Huế vẫn không đi đến bất kỳ quyết định nào: sứ bộ không được cử đi các nước, kế hoạch đánh úp Pháp để thu hồi 6 tỉnh Nam Kỳ không được thực hiện,...
Sau mấy tháng ở Huế, Nguyễn Trường Tộ xin phép trở về Xã Đoài (Nghệ An). Ngày 22/11/1871, ông mất, 41 tuổi.
3. Tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ
Từ những năm 60 của thế kỷ 19, khi triều đình nhà Nguyễn suy yếu, đất nước dần rơi vào tay thực dân xâm lược Nguyễn Trường Tộ đã đau đáu với nỗi niềm yêu nước, vận mệnh dân tộc và đưa ra những yêu cầu canh tân để sớm đưa đất nước hùng cường.
Trong cả cuộc đời của mình, Nguyễn Trường Tộ đã viết và gửi lên triều đình Huế 58 bản điều trần, luận văn, tờ bẩm, kiến nghị nhằm mục đích canh tân đất nước, chấn hưng dân trí, coi trọng khoa học, giáo dục tạo thế vững mạnh cho dân tộc để giữ vững độc lập, bảo vệ đất nước bằng sức mạnh quân sự, chính sách ngoại giao mềm dẻo.
Những cải cách, đề nghị của Nguyễn Trường Tộ khá toàn diện, bao quát hầu hết các lĩnh vực, cụ thể:
Về kinh tế, Nguyễn Trường Tộ quan tâm đến việc làm cho dân giàu, nước mạnh. Theo ông, đó là điều kiện cần thiết để cứu nước và giữ nước. Ông đề nghị với triều đình mua thuyền máy, cử người sang phương Tây học cách điều khiển và sửa chữa. Đồng thời, cũng đề nghị việc khai thác mỏ, thiết lập các nhà máy sản xuất hàng tiêu dùng để phát triển công nghiệp.
Về nông nghiệp, coi trọng vấn đề cải cách tiên tiến kỹ thuật, đặt chức “nông quan” phụ trách về nông nghiệp, thủy lâm tại các địa phương; phổ biến rộng rãi kiến thức nông nghiệp cho nhân dân.
Về thương nghiệp, thực hiện việc giao lưu hàng hóa, mở cửa thông thương đầu tư để khai thác tiềm năng của đất nước. Khuyến khích việc xuất khẩu nông - lâm - hải và khoáng sản.
Về tài chính, cần công bằng và hợp lý trong việc thu thuế, đo đạc ruộng đất, kê khai dân số hàng năm để tránh thất thu, gian lận. Tăng thuế và đánh thuế nặng với sòng bạc, rượu, thuốc lá và các mặt hàng xa xỉ ngoại nhập để bảo vệ mặt hàng nội địa, đánh thuế với nhà giàu.
Về chính trị, chủ trương duy trì, củng cố trật tự xã hội. Nguyễn Trường Tộ đề nghị sáp nhập một số tỉnh, huyện để tinh giảm biên chế, tăng lương cho viên chức, vẽ bản đồ cương giới, điều tra dân số, thống kê các mặt sinh hoạt của đất nước. Đề nghị lập thêm Bộ Nông nghiệp, Bộ Ngoại giao và tòa án phải độc lập, nhà vua chỉ có quyền ân xá chứ không được kết án.
Về quốc phòng, đề nghị tạm hòa với Pháp để củng cố lực lượng, siết chặt hàng ngũ, tổ chức huấn luyện quân đội có mời chuyên gia phương Tây; có chính sách đãi ngộ với quân đội, chế tạo vũ khí mới,...
Về ngoại giao, tạm nhượng bộ Pháp, thiết lập giao bang với các nước để tranh thủ nguồn lực, tự cường, chờ đợi thời cơ đánh đuổi Pháp.
Về giáo dục, chủ trương phát động học tập, phổ biến rộng rãi kinh nghiệm, sáng kiến trong nhân dân; bổ sung một số môn học, gửi học sinh sang các nước học ngoại ngữ, các môn khoa học hiện đại. Dùng quốc âm thống nhất, biên soạn từ điển, phổ biến trong nhân dân cho dễ học, dễ hiểu.
Về văn hóa - xã hội, lập nhà in, xuất bản sách, báo để nâng cao trình độ dân trí. Đồng thời, kiểm soát, hạn chế, cấm đoán các loại sách độc hại, xây dựng nếp sống văn hóa. Nguyễn Trường Tộ cũng chống lại luật lệ không cho dân đi xe, đi giày.
Nguyễn Trường Tộ và vua Tự Đức
Các đề xuất cải cách, canh tân đất nước của Nguyễn Trường Tộ trình đệ vào những năm cuối đời đều được vua Tự Đức bàn đi tính lại nhưng đều không được sử dụng. Nguyên nhân chính là do bối cảnh chính trị - xã hội đương thời thiếu những điều kiện quan trọng để thực hiện các biện pháp, kế hoạch canh tân của Trạng Tộ. Vua Tự Đức và triều đình còn mang nặng tư tưởng thủ cựu, lạc hậu, xử lý vấn đề Nam Kỳ còn lúng túng, bế tắc. Và bản thân ông cũng chính là bi kịch điển hình của “thân phân người Công giáo” đương thời.
Khát vọng canh tân đất nước của Nguyễn Trường Tộ được thể hiện qua 58 bản điều trần dù chưa được phúc đáp nhưng để lại nhiều bài học quý giá, nhiều vấn đề đến nay vẫn còn nguyên giá trị; thể hiện những đóng góp to lớn của ông với nhân dân, đất nước.
Với các thông tin trên đây về Nguyễn Trường Tộ hy vọng sẽ giúp ích với bạn. Để có thêm nhiều thông tin hữu ích khác, quý bạn đọc hãy truy cập loiphong.vn chắc chắn sẽ giúp ích bạn rất nhiều đó!