Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm được biết đến như cố vấn cho 3 thế lực chính trị Trịnh - Nguyễn - Mạc với tâm niệm giúp dân thoát khỏi cảnh lầm than. Ông còn nổi danh bởi tài học sâu rộng, tầm nhìn chiến lược, nhà văn hóa lớn cùng với những lời sấm truyền, tiên tri vô cùng chính xác. Cùng tìm hiểu các thông tin chi tiết dưới đây của loiphong.vn, chắc chắn sẽ giúp ích với bạn rất nhiều đó!
1. Nguyễn Bỉnh Khiêm là ai? Tiểu sử về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm là ai? Tiểu sử về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) tên húy là Văn Đạt, sinh ra dưới thời vua Lê Thánh Tông - thời kỳ thịnh trị nhất của nhà Lê sơ. Ông hiệu là Bạch Vân cư sĩ, biệt hiệu Tuyết Giang phu tử, người làng Trung Am huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương nay thuộc huyện Vĩnh Bảo Hải Phòng.
Cha Nguyễn Bỉnh Khiêm là Nguyễn Văn Định, nổi tiếng học giỏi. Mẹ là bà Nhữ Thị Thục, con gái út của quan tiến sĩ thương thư bộ Hộ Nhữ Văn Lan triều vua Lê Thánh Tông - người học rộng, giỏi tướng số.
Từ nhỏ, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được giáo dục cẩn thận, rèn luyện cả về thể lực và trí lực nên rất khỏe, thông minh khác thường, chưa đến một tuổi đã nói sõi. Lên 4 tuổi ông đã được mẹ dạy sách Kinh, thơ Nôm,...Hầu hết sự nghiệp của ông đều ghi nhận ảnh hưởng lớn từ bên họ ngoại trong việc hình thành nhân cách, tài năng.
Trạng Trình còn nổi tiếng với khả năng tiên tri, người đời còn lưu lại rất nhiều tiên đoán của ông và gọi là “Sấm Trạng Trình”. Ông còn là một trong những người đầu tiên trong lịch sử nhận thức được tầm quan trọng của việc giữ gìn chủ quyền biển Đông.
Năm 1585, Nguyễn Bỉnh Khiêm lâm bệnh nặng. Khi ông qua đời, nhà vua đã cử phụ chính đại thần về úy tế, dựng đền thờ và tự tay nhà vua viết biên đề.
2. Cuộc đời và sự nghiệp của danh nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm
2.1. Đỗ trạng nguyên ở tuổi 44
Sống trong thời đại có nhiều biến cố, ông không vội tham gia khoa cử, mãi đến năm 1535, dưới thời Mạc Thái Tông thịnh trị nhất triều Mạc ông mới ứng thi và đỗ trạng nguyên. Nguyễn Bỉnh Khiêm được bổ nhiệm làm Đông các hiệu thử rồi lần lượt giữ các chức Tả thị lang bộ Hình, Tả thị lang bộ lại kiêm Đông các Đại học sĩ.
Đỗ trạng nguyên ở tuổi 44
Khi Mạc Hiển Tông lên ngôi vua, ông đã dâng sớ trị tội 18 lộng thần nhưng vua không chấp nhận. Năm 1542, Nguyễn Bỉnh Khiêm từ bỏ chức quan, lui về quê dạy học. Hai năm sau, vua Mạc lại mời ông ra làm quan, phong tước Trình Nguyên Hầu, thăng chức Thượng thư bộ Lại Pháp phó, tước Trình Quốc Công. Vì thế, người đời thường gọi ông là trạng Trình.
Trong gần 20 năm (từ 53 đến 72 tuổi), Nguyễn Bỉnh Khiêm không ra ở hẳn kinh sư nhưng vẫn đảm nhiệm nhiều việc triều chính, lúc thì bàn quốc sự, lúc thì theo vua dẹp loạn nên được vua Mạc Thái Tông xem là “quân sư”. Sách Lịch triều hiến chương loại chí viết: “Vua Mạc tôn như bậc thầy, khi trong nước có việc quan trọng vẫn sai sứ đến hỏi ông. Có lúc còn triệu ông về kinh để hỏi mưu lớn, ông học rộng, hiểu sâu nghĩa lý Kinh Dịch, mưa nắng, họa, phúc việc gì cũng biết trước”.
Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có nhiều môn đệ tiếng tăm lẫy lừng như Nguyễn Dữ, Thượng thư Bộ Lễ Lương Hữu Khánh,Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, Quốc công Nguyễn Quyện, Thượng thư Bộ Hộ Trạng nguyên Giáp Hải, Tiến sĩ Trương Thời Cử, Tiến sĩ Đinh Thời Trung, Hàn Giang Phu tử Nguyễn Văn Chính,...Những người này có sở học đạt đến trình độ uyên bác và đều là danh thần trong thời Trung hưng.
Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có bút hiệu là Bạch Vân cư sĩ, được các môn đồ tôn danh là Tuyết Giang Phu Tử - là một nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn trong lịch sử thế kỷ XVI.
2.2. Sấm Trạng Trình
Sau này, Đạo Cao Đài đã phong thánh cho Nguyễn Bỉnh Khiêm và suy tôn là Thanh Sơn Đạo sĩ, người đời xem cụ là “nhà tiên tri số 1” trong lịch sử Việt. Để lại nhiều câu sấm ký nên được gọi chung là “Sấm Trạng Trình”. Nguyễn Bỉnh Khiêm là người đầu tiên trong lịch sử nhắc đến hai chữ Việt Nam thông qua câu sấm “Việt Nam khởi tổ gây nên”. Tên trước lúc Trạng Trình tiên tri là Đại Việt, 300 năm sau đổi thành Nam Việt và sau đó là Việt Nam.
Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại cho hậu thế 478 câu sấm, có tuổi đời trên 500 năm. Lạ kỳ thay đã có không ít sự kiện lịch sử Việt Nam và thế giới đã xảy ra trong suốt hơn 500 năm qua có không ít điều “ứng” với các câu ghi trong “Sấm Trạng Trình”.
Người dân Việt luôn tự hào về Nguyễn Bỉnh Khiêm - một người đã góp trí tuệ của mình cho nền văn hiến nhất là đời sống dân sinh qua việc khuyên bảo các vị vua chúa, vương quyền tránh gây ra thảm cảnh đổ máu vô ích trong các âm mưu chiếm đoạt quyền vị.
2.3. “Tư vấn” cho nhà Trịnh
Đối với Lê - Trịnh, khi vua Lê Trung Tông mất, không có con để nối ngôi, Trịnh Kiểm định thay ngôi nhà Lê để xưng vương nhưng còn sợ dư luận nên liền sai người hỏi Trạng Trình. Trạng Trình không trả lời mà dẫn sứ giả ra chùa, thắp hương và nói: “Mấy năm nay mất mùa, nên tìm thóc giống cũ mà gieo”. Rồi lại bảo chú tiểu quét dọn chùa sạch sẽ và nói: “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản” (ý nói giữ là bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn). Hiểu ý, Trịnh Kiểm không dám phế bỏ nhà Lê mà phò tá vua Lê để lập nghiệp Chúa, sai người tìm người tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê Lợi) đưa lên ngôi, tức là vua Lê Anh Tông.
Nhà Trình mượn tiếng nhà Lê nhưng thực chất nắm quyền điều hành chính sự, còn nhà Lê nhờ nhà Trịnh lo đỡ chuyện chính sự. Hai bên nương tựa lẫn nhau, tồn tại đến hơn 200 năm vì thế mới có câu: “Lê tồn Trịnh tại”.
2.4. “Cứu vãn” nhà Mạc
Sinh thời, ông đã dùng tài lý số của mình để cứu vãn triều đình nhà Mạc. Dưới thời nhà Mạc, năm 44 ông thi đỗ trạng nguyên; vua Mạc Đăng Doanh đưa ông lên làm Tả thị lang Đông các học sĩ. Nhưng sau khi dâng sớ hạch tội 18 lộng thần không được vua chấp thuận nên ông đã cáo quan về ở ẩn. Lúc đó, đất nước đang trong giai đoạn hỗn loạn, ba triều đại cùng tồn tại. Lúc triều Mạc lâm nguy, vua Mạc sai người đến hỏi ông và ông đưa ra lời sấm cho nhà Mạc: “Cao Bằng tàng tại, tam đại tồn cô”
Việc nhà Mạc lên Cao Bằng dựng nghiệp đã khiến cho các thế lực phong kiến các triều đại Trung Hoa khó xâm phạm nước Việt trong thời gian dài. Đất Than Uyên (tên gọi Cao Bằng ngày xưa) được người Trung Hoa đặc biệt coi trọng vì nơi đó được cho rằng có nhiều mỏ vàng dễ khai thác.
2.5. Triết lý giáo dục của người thầy đào tạo ra nhiều nhân tài
Triết lý giáo dục của người thầy đào tạo ra nhiều nhân tài
Ngay khi đỗ trạng nguyên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dạy học, học trò của ông đều là những người nổi tiếng về sau. Nguyễn Bỉnh Khiêm giáo dục cho nhân dân và học trò rất nhiều về đạo lý làm người, đạo lý ở đời, sự học và cách học.
Ông coi trọng việc giáo dục phải thực hiện được vai trò định hướng ý chí và hành động cho người học, nhất là việc gắn ý chí học hành với lý tưởng cống hiến hết mình cho đất nước. Luôn đề cao trách nhiệm cống hiến xã hội, cho rằng tác dụng cao nhất của giáo dục là cứu độ nhân thế, hướng con người trở về tịnh thiện bởi “thiện là dòng dõi của giáo dục”.
3. 6 Lời tiên tri nổi tiếng ứng nghiệm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
3.1. “Cao Bằng tàng tại, tam đại tồn cô”
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm từng dùng tài lý số của mình để “cứu vãn” cho triều đình nhà Mạc. Được biết, khi triều Mạc lâm nguy, vua Mạc đương triều có sai người đến hỏi Trạng Trình. Ông đã đưa ra lời sấm cho nhà Mạc: “Cao Bằng tàng tại, tam đại tồn cô”. Điều này có nghĩa là, nếu chạy lên Cao Bằng thì tồn tại được 3 đời. Quả nhiên, nhà Mạc lên Cao Bằng và tồn tại được thêm 3 đời nữa.
3.2. “Hoàng sơn nhất đái khả dĩ dung thân”
Lời sấm tư vấn cho nhà Trịnh
“Hoàng sơn nhất đái khả dĩ dung thân” là lời sấm Nguyễn Bỉnh Khiêm đưa ra cho nhà Nguyễn. Nhờ đó, nhà Nguyễn mới tiến vào Nam mở rộng bờ cõi, đất nước ta mới có hình thái như bây giờ.
Năm 1568, chúa Nguyễn Hoàng thấy anh là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm giết. Thấy số phận mình nguy cấp nên đã sai người đến diện kiến Trạng Trình ở am Bạch Vân xin lời sấm. Cụ Trạng cầm tay sứ giả dắt ra hòn non bộ, chỉ vào đàn kiến đang bò và nói: “Hoàng sơn nhất đái khả dĩ dung thân”, có nghĩa là một dải Hoàng sơn có thể dung thân được.
Hiểu được ý đó, Nguyễn Hoàng nhờ chị xin Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa từ đèo Hải Vân trở vào. Điều này đã giúp nhà Nguyễn xây dựng nên đế chế ở phương Nam. Sau này, nhà Nguyễn đã đổi câu sấm của Trạng Trình thành: “Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân” với dụng ý sẽ giữ được cơ nghiệp mãi mãi.
3.3. Phải giữ được biển Đông
Nguyễn Bỉnh Khiêm được xem là người đầu tiên nhắc đến biển Đông Việt Nam. Trong bài thơ Cự Ngao Đới Sơn thuộc tập thơ Bạch Vân am thi tập, ông viết “Biển Đông vạn dặm dang tay giữ/Đất Việt muôn năm vững trị bình/ Chí những phù nguy xin gắng sức/ Cõi bờ xưa cũ tổ tiên mình”. Câu này như lời khuyên của Trạng Trình với thế hệ sau rằng phải nắm giữ được biển Đông thì đất nước mới thái bình, thịnh trị muôn đời.
Trong bài viết Tầm nhìn chiến lược về biển đảo của Trạng Trình từ 500 năm trước, tác giả Nguyễn Đình Minh nhận định: “Trước đây khi đề cập đến lãnh thổ, chúng ta thường nói nhiều về sông núi, đất đai, chúng ta có nói về biển nhưng không nhiều, biển không là trọng điểm nhấn mạnh. Nhưng từ 500 năm trước, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dự báo tầm quan trọng của biển đảo dẫn đến sự tồn vong thịnh trị của cả quốc gia. Điều ấy cho thấy tầm chiến lược về bảo vệ của ông rất rộng lớn và toàn diện”.
3.4. Nam Đàn sinh Thánh
Vùng đất Nghệ Tĩnh lưu truyền những câu sấm truyền của Trạng Trình như: “Đụn Sơn phân giải/ Bò Đái thất thanh/ Thủy đáo Lam thành/ Nam Đàn sinh thánh”. Tạm dịch
“Khi núi Đụn chẻ đôi, khe Bò Đái mất tiếng, sông Lam khoét vào chân núi Lam Thành, đất Nam Đàn sẽ sinh ra bậc thánh nhân”.
Nhà sử học Ngô Đăng Lợi cho biết, sau khi thực dân Pháp đàn áp tàn khốc phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, lời bài sấm được bàn tán xôn xao. Người dân mong chờ một vị thánh sống xuất thế. Lúc đo, khe Bồ Đái nước ngừng chảy do đó người dân lại càng tin.
Trong một cuộc gặp gỡ giữa cụ Phan Bội Châu và học giả Đào Duy Anh, nhà nho Trần Lê Hữu hỏi: “Thưa cụ Phan, “Bò Đái thất thanh, Nam Đàn sinh thánh” chẳng phải là cụ hay sao?. Phan Bội Châu đáp: “Kể cái nghề cử tử xưa kia tôi cũng có tiếng thật. Dân ta thường có thói trọng người văn học và gán cho người ta tiếng nọ tiếng kia. Nhưng nếu Nam Đàn có thánh thực thì chính là ông Nguyễn Ái Quốc chứ chẳng phải ai khác”.
3.5. Khởi nghĩa Yên Bái năm 1930
Lời sấm linh ứng với cuộc khởi nghĩa Yên Bái 1930
Cuộc khởi nghĩa do Việt Nam Quốc dân Đảng phát động thất bại vào tháng 2/1930 nhiều căn cứ địa bị Pháp đàn áp. Riêng làng Cổ Am bị 5 máy bay ném bom làm nhiều người chết, nhà cửa bị thiêu cháy, đổ nát.
Ở sự kiện này, tuần báo Phụ nữ tân văn số 44 có đăng bài “Ông Trạng Trình có biết trước rằng làng Cổ Am của ông có ngày nay không?”. Tác giả bài viết ngờ rằng Trạng có biết nên “đã rời hết sách vở của ông vào Thanh Hóa… vì theo di chúc của ông thì làng Cổ Am không được bền vững”.
Đến số 48, Phụ nữ tân văn đã đăng một bài thơ do bạn đọc gửi đến được cho là lời Sấm của Trạng Trình: “Hiu hiu gió thổi, lá rung cây/ Từ Bắc sang Nam, Đông tới Tây/ Cửa nhà tan tác ra cồn cát/ Rừng núi ruộng nương hóa vũng lầy/ Tan tác Kiến kiều An đất nước/ Xác xơ Cổ thụ sạch Am mây/ Một gió, một Yên ai sùng Bái/ Cha con người Vĩnh, Bảo cho hay”.
Khi Pháp ném bom, miếu thờ Trạng bị đổ, mấy tuần sau dân ra sửa sang thì phát hiện một tấm bia nhỏ có 3 hàng chữ Hán: “Canh niên tân phá/ Tuất, hợi phục sanh/ Nhị ngũ dư bình”. Người dân phán đoán, Canh tức là năm Canh Ngọ (1930), còn ý tứ của 2 câu sau thì đến giờ vẫn đang còn nhiều tranh luận.
3.6. Cách mạng tháng Tám
Theo một số nhà sưu tầm và nghiên cứu, Cách mạng Tháng Tám đã được Trạng Trình dự báo qua câu thơ: “Đầu Thu gà gáy xôn xao/ Trăng xưa sáng tỏ soi vào Thăng Long”.
Liên quan đến sự kiện này, nhà sử học Ngô Đăng Lợi cũng sưu tầm bài thơ được cho là của Trạng Trình để lại: “Rồng nằm bể cạn dễ ai hay (năm Thìn 1940)/ Rắn mới hai đầu khó chịu thay (năm Tỵ 1941)/ Ngựa để gác yên không ai cưỡi (năm Ngọ 1942)/ Dê khan ăn lộc ngoảnh về tây (năm Mùi 1943)/ Khỉ nọ bồng con ngồi khóc mếu (năm Thân 1944)/ Gà kia xào xạc cất cánh bay (năm Dậu 1945)/ Chó ve vẩy đuôi mừng thánh chúa (năm Tuất 1946)/ Lợn ủn ỉn ăn no ngủ ngày (năm Hợi 1947)”
Theo nhà sử học Ngô Đăng Lợi, nếu để ý ở câu 6 “Gà kia xào xạc cất cánh bay” phải chăng ám chỉ việc quân Pháp bị tước khí giới, trở về nước và trả lại nên độc lập cho nước ta vì chữ gaulois (người Pháp) do chữ latin gallus có nghĩa là con gà.
Theo đó, câu 6 của bài sấm ứng vào Cách mạng Tháng 8. Câu 7 “Chó ve vẩy đuôi mừng thánh chúa” ứng với việc Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bầu lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch nước vào năm 1946 (năm Bính Tuất).
Đền thờ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ở Hải Phòng
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà quân sự tài ba, một nhà văn hóa lớn có nhiều đóng góp cho lịch sử dân tộc Việt Nam. Ngày nay, có rất nhiều con đường và trường học được đặt theo tên ông nhằm tưởng nhớ đến bậc thầy vĩ đại. Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm được đặt tại thôn Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Đây là nơi để tri ân những đóng góp của một danh nhân Trạng Trình và cũng là nơi diễn ra các hoạt động, sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân cả nước.