0963937586
Tư vẫn miễn phí 24/24
Ship code
Trên phạm vi toàn quốc
Thanh toán
Khi nhận hàng tại Hà Nội
Góc tư vấn

Nguyễn Đình Chiểu

Nguyễn Đình Chiểu là tấm gương sáng về tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường, bất khuất,...; thể hiện khí phách hiên ngang của người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, văn hóa

Nguyễn Đình Chiểu là người mở đầu cho giai đoạn văn học nửa cuối thế kỷ XIX, đóng nhiều tác phẩm có giá trị cho kho tàng văn học Việt Nam. Ông còn được biết đến là người có tấm lòng yêu nước nồng nàn, căm thù giặc ngoại xâm, quyết giữ trọn lòng trung thành với Tổ quốc, nhân dân. Để hiểu rõ hơn, quý bạn đọc đừng bỏ qua các thông tin chi tiết dưới đây của loiphong.vn

1. Nguyễn Đình Chiểu là ai?

Nguyễn Đình Chiểu là ai?

Nguyễn Đình Chiểu là ai?

Nguyễn Đình Chiểu hay còn gọi là Cụ Đồ Chiểu, tự là Mạch Trạch, Hiệu Trọng Phủ Hối Trai, sinh ngày 1/7/1822 ở làng Tân Thới, Phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay thuộc Quận 1, TP Hồ Chí Minh). Xuất thân trong một gia đình nhà nho hiếu học nên từ nhỏ ông đã rất thông minh, chăm chỉ. Từ một cậu ấm bỗng chốc trở thành dân thường sống trong cảnh chạy loạn. Lớn lên ông bị mù, bị gia đình giàu có bội ước,...Mặc dù cuộc đời gặp nhiều bất hạnh nhưng Nguyễn Đình Chiểu lúc nào cũng gắn bó với nhân dân.

Tuy bị mù nhưng ông đã tiến thân thành danh bằng con đường hành đạo. Ông mở lớp dạy học, viết văn và bốc thuốc chữa bệnh cho dân, quan tâm tới chiến sự. Lúc nào, Nguyễn Đình Chiểu cũng làm một lúc ba nhiệm vụ để cứu dân, giúp đời. Ông còn được biết đến là người có nghị lực phi thường, vượt qua những nỗi bất hạnh của cá nhân và thời cuộc. Tất cả đã tạo nên một nhà nho yêu nước tiêu biểu cho giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX.

Nguyễn Đình Chiểu đã có những cống hiến rất lớn cho dân tộc, cho nền văn chương Việt Nam. Ông là tấm gương sáng ngời về ý chí, nghị lực phi thường, về đạo đức làm người, lòng yêu nước, căm thù giặc. Cuộc đời và sự nghiệp của ông vẫn luôn sáng mãi trong lòng người dân Việt. Năm 2021, ông được UNESCO cùng Việt Nam tôn vinh và kỷ niệm năm sinh/ năm mất.

2. Tiểu sử Nguyễn Đình Chiểu: Thân thế và cuộc đời

2.1. Thân thế Nguyễn Đình Chiểu

Xuất thân trong một gia đình nhà nho, cha là Nguyễn Đình Huy người làng Bồ Điền, xã Phong An, huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên nay là Thừa Thiên Huế. Lớn lên, ông Huy cưới vợ ở đây và có hai người con (một trai và một gái).

Tháng 5/1820, Tả quân Lê Văn Duyệt được triều đình Huế phái vào làm Tổng trấn ở Gia Định Thành. Đầu mua thu, ông Nguyễn Đình Huy đi theo Tả quân để tiếp tục làm thư lại ở Văn hàn ty thuộc dinh Tổng trấn. Ở Gia Định, ông Huy có thêm người vợ thư là bà Trương Thị Thiệt - người làng thới, sinh ra 7 người con (4 trai, 3 gái) và Nguyễn Đình Chiểu là con đầu lòng.

2.2. Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu

● Thời đi học

Từ nhỏ, Nguyễn Đình Chiểu từng chứng kiến cảnh loạn lạc của xã hội lúc bấy giờ, tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi tại Gia Định. Cuộc khởi nghĩa này đã khiến cho cha ông bỏ trốn ra Huế và cách chức. Năm 1833, cha ông trở lại miền Nam, gửi ông cho một người bạn ở Huế để tiếp tục việc học tập. Từ 12 - 19 tuổi, Nguyễn Đình Chiểu sống tại Huế.

● Mẹ mất, mắt bị mù

Năm 1843, Nguyễn Đình Chiểu đỗ Tú tài ở trường thi Gia Định. Khi ấy, có một nhà họ Võ đã hứa gả con gái cho.

Năm 1847, ông ra Huế học để chờ thi khoa Kỷ Dậu năm 1849. Nhưng chưa kịp thi thì ông nhận được tin mẹ mất tại Gia Đình. Trên đường về, vì quá thương mẹ, vì vất vả và thời tiết thất thường, khi tới Quảng Nam ông bị ốm nặng và mù cả đôi mắt. Mặc dù được vị danh y hết sức cứu chữa nhưng vẫn không qua khỏi. Trong thời gian chữa bệnh, Nguyễn Đình Chiểu đã được vị danh y này truyền dạy nghề thuốc.

Lâm vào cảnh mù mắt, hôn thê bội ước, nhà cửa sa sút,...Nguyễn Đình Chiểu đóng cửa, chịu tạng mẹ cho đến năm 1851 thì mở trường dạy học và làm thuốc ở Bình Vị (Gia Định)

Năm 1854, Nguyễn Đình Chiểu cưới Lê Thị Điền làm vợ. Bà Điền là em gái thứ năm của Lê Tăng Quỳnh - học trò của ông, vì cảm phục và mến thương thầy nên đã xin gia đình tác hợp.

● Dạy học, làm thuốc và sáng tác văn thơ

Dạy học, làm thuốc và sáng tác văn thơ

Dạy học, làm thuốc và sáng tác văn thơ

Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng. Vấp phải sự kháng cự quyết liệt của quân và dân ta, quân Pháp vào Nam đánh phá thành Gia Định vào đầu năm 1859. Sau khi tòa thành thất thủ, ngày 17/2/1859, Nguyễn Đình Chiểu đưa gia đình về sống ở quê vợ Thanh Ba. Vô cùng đau đớn trước thảm cảnh mà quân Pháp đã gây ra cho đồng bào, thất vọng về sự yếu hèn của triều đình ông đã sáng tác bài thơ “Chạy giặc”.

Sau Hòa ước Nhâm Tuất 1862, ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ mất về tay Pháp, theo phong trào “ty địa”, Nguyễn Đình Chiểu cùng gia đình rời Thanh Ba về Ba Tri (Bến Tre)

Về Ba Tri (Bến Tre) ông tiếp tục dạy học, làm thuốc, dùng ngòi bút yêu nước của mình để phục vụ công cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào Nam Kỹ trong hơn 20 năm.

Năm 1863, em trai út của ông là Nguyễn Đình Huân theo Đốc binh chống Pháp hy sinh ở Cần Giuộc.

Tháng 8/1864, thủ lĩnh kháng chiến chống Pháp ở Gò Công là Trương Định bị thương rồi tuẫn tiết. Xúc động, Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế và 12 bài thơ liên hoàn để điếu.

Năm 1867, Kinh lược sứ Phan Thanh Gian và Đốc học Vĩnh Long Nguyễn Thông tổ chức đưa di hài nhà giáo Võ Trường Toản từ làng Hòa Hưng (Gia Định) về táng ở Bảo Thạnh (Ba Tri), Nguyễn Đình chiểu có đến dự lễ.

Ngày 4/8/1867, Phan Thanh Giản tuẫn tiết vì không giữ được thành Vĩnh Long, Nguyễn Đình Chiểu làm hai bài thơ điếu.

Năm 1868, thủ lĩnh chống Pháp ở Ba Tri là Phan Tòng hy sinh, ông làm 10 bài thơ điếu

Năm 1877, Nguyễn Đình Chiểu rời đến ở làng An Bình Đông (sau đổi thành An Đức) cách chợ Ba Tri khoảng 2 cây số.

Năm 1883, Tỉnh trưởng Bến Tre là Michel Ponchon đã đến nhà để yêu cầu ông nhuận chính quyển thơ Lục Vân Tiên, ngỏ ý trao trả lại ruộng vườn của ông mà họ đã chiếm đoạt nhưng ông nói: “Đất vua không ai trả thì đất riêng của tôi có sá gì”, rồi khước từ mọi hứa hẹn, giúp đỡ của chính quyền thực dân. Lại hỏi ý muốn riêng của ông, ông đáp “muốn tế vong hồn nghĩa sĩ Lục tỉnh”, và được viên Tỉnh trưởng chấp thuận. Sau đó, Nguyễn Đình Chiểu tổ chức lễ tế tại chợ Ba Tri, đọc bài “Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh”.

● Qua đời

Nguyễn Đình Chiểu - Nhà nho một lòng với Nam Kỳ lục tỉnh

Nguyễn Đình Chiểu - Nhà nho một lòng với Nam Kỳ lục tỉnh

Năm 1866, vợ ông mất. Vì vợ mất, vì cảnh nước mất nhà tan, vì bệnh ngày càng trầm trọng, ngày 3/7/1888, Nguyễn Đình Chiểu mất tại Ba Tri, thọ 66 tuổi. Ngày đưa tiễn, cánh đồng An Đức rợp trắng khăn tang từ những người yêu mến ông. Nguyễn Đình Chiểu được an táng cạnh mộ vợ nay thuộc Ấp 3, An Đức, Ba Tri, Bến Tre.

3. Quan điểm văn chương và tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Đình Chiểu

3.1. Quan điểm văn thơ Nguyễn Đình Chiểu

Tuy không nghị luận về văn chương nhưng Nguyễn Đình Chiểu có quan điểm văn chương riêng. Quan điểm “văn dĩ tải đạo” của ông khác biệt hoàn toàn với quan điểm của các nhà Nho khác và càng khác với quan niệm chính thống lúc bấy giờ. Nhà Nho quan niệm, Đạo là đạo của trời, còn Đồ Chiểu đạo làm người đáng quý hơn. Đó cũng chính là quan niệm bao trùm lên văn chương của ông.

Quan điểm văn chương của Nguyễn Đình Chiểu dù không được tuyên ngôn nhưng đây là quan điểm tiến bộ, gần gũi với văn chương dân tộc.

Quan điểm văn thơ Nguyễn Đình Chiểu

Quan điểm văn thơ Nguyễn Đình Chiểu

Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho sống theo đạo nghĩa, tuy mù lòa và gặp lúc biến loại nhưng ông vẫn giữ được phẩm chất thanh cao. Không chỉ là người con có hiếu, ông còn là người thầy thuốc mẫu mực, một nhà thơ yêu nước, để lại nhiều tác phẩm văn chương có giá trị.

Ông là nhà thơ có quan điểm văn chương nhất quán, chủ trương dùng văn chương biểu hiện đạo lý và chiến đấu cho sự nghiệp chính nghĩa. Vậy nên, mỗi câu thơ của ông đều ẩn chứa nhiều ngụ ý, khen chê công bằng, rạch ròi và biểu lộ tấm lòng thương dân, yêu nước.

Nguyễn Đình Chiểu thường dùng chữ Nôm, với ngôn từ nghệ thuật bình dị giàu sức biểu cảm khiến cho các tác phẩm của ông có sức hút mạnh mẽ với người đọc. Ông là nhà thơ đầu tiên xây dựng hình ảnh người nông dân trong văn học Việt Nam; đắp tô tượng đài vĩnh cửu về người anh hùng Nam Bộ - tiên phong trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

3.2. Các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Đình Chiểu

Nội dung thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu mang nặng lý tưởng đạo đức nhân nghĩa, lòng yêu nước thương dân, ghi lại chân thực một thời đau thương của đất nước, tố cáo tội ác của kẻ thù. Cùng với đó là bút pháp trữ tình mang hơi thở cuộc sống, mang đậm sắc thái Nam Bộ, lối thơ thiên về kể, mang sắc thái diễn xướng. Các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Đình Chiểu đó là:

Truyện thơ dài: truyện Lục Vân Tiên, Dương Tử - Hà Mậu.

Các tác phẩm phản ánh chân thực về thời kỳ đau thương của đất nước và tố cáo tội ác kẻ thù như: Chạy giặc, Ngư tiều y thuật vấn đáp,...

Nguyễn Đình Chiểu còn nổi tiếng với các bài văn tế, hịch như:

● Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (1861)

● Mười hai bài thơ và bài văn tế Trương Định (1864)

● Mười bài thơ điếu Phan Tòng (1868)

● Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh (1874)

● Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây

● Hịch đánh chuột

4. Đền thờ nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu tại Bến Tre

Đền thờ nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu tại Bến Tre

Đền thờ nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu tại Bến Tre

Khu di tích nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu tại Ấp 3, xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Đây là một quần thể kiến trúc, có tổng diện tích hơn 1,5ha, được trùng tu vào năm 2000 bao gồm cả khu lăng mộ được xây dựng vào năm 1972. Công trình gồm có các hạng mục: cổng tam quan, nhà bia, đền thờ mới, đền thờ cũ và khu lăng mộ. Nơi đây trở thành địa điểm du lịch tâm linh nổi tiếng, là niềm tự hào của người dân Bến Tre với nhà thơ, nhà yêu nước, người thầy giáo mẫu mực, có tâm có tài Nguyễn Đình Chiểu.

Khu di tích nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu tại Bến Tre có tượng cụ Đồ được làm bằng thau đồng, nặng 1,2 tấn. Mảng phù điêu bên phải tả cảnh cụ Đồ đọc văn tế “Lục tỉnh sĩ dân trận vong” tại chợ Đập (Ba Tri) năm 1883. Mảng phù điêu bên phải miêu tả trận đánh của Phan Ngọc Tòng tại Giồng Gạch (An Hiệp - Ba Tri).

Phần mộ của cụ Đồ với phu nhân, gần đó là nơi yên nghỉ của nữ sĩ Nguyễn Thị Ngọc Khuê (Sương Nguyệt Ánh) con gái của nhà thơ

Phần mộ của cụ Đồ với phu nhân, gần đó là nơi yên nghỉ của nữ sĩ Nguyễn Thị Ngọc Khuê (Sương Nguyệt Ánh) con gái của nhà thơ

Năm 1990, khu lăng mộ Nguyễn Đình Chiểu được nhà nước công nhận là khu di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Năm 2017, khu di tích này tiếp tục được Bộ VH-TT&DL cấp Bằng công nhận Khu di tích văn hóa, lịch sử cấp Quốc gia đặc biệt.  Ngoài ra, nơi đây còn lưu giữ nhiều hình ảnh, tư liệu về các thủ lĩnh, nghĩa quân và một số phong trào chống Pháp của nhân dân Nam Kỳ cuối thế kỷ 19.

Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ, nhà văn hóa lớn của nhân loại. Với triết lý văn hóa nhân sinh, ông kiên quyết chống lại thế lực đen tối bằng ngòi bút sắc bén, những câu chuyện nhân văn sâu sắc. Truy cập loiphong.vn để cập nhật thêm nhiều thông tin hữu ích khác.

Quý khách vui lòng để lại thông tin, chúng tôi sẽ liên hệ ngay!