Lương Thế Vinh nổi tiếng là thần đồng, thông minh và nhanh trí, đỗ trạng nguyên ở tuổi 23. Ông rất giỏi toán học, có nhiều phát minh và ứng dụng trong cuộc sống nên được mệnh danh là “người đặt nền móng cho Toán học Việt Nam”. Với chủ trương học trò cần phải học tập chuyên tâm, kết hợp giải trí và vận dụng kiến thức vào cuộc sống ông đã có rất nhiều học trò giỏi, đỗ đạt cao.
1. Lương Thế Vinh là ai? Tiểu sử Lương Thế Vinh
Lương Thế Vinh có tên chữ là Cảnh Nghị sinh năm 1441 tại làng Cao Hương, huyện Thiên Bản, Trấn Sơn Nam nay là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Từ nhỏ, ông đã nổi tiếng học nhanh, sáng trí, sáng tạo trong việc học và chơi. Lớn lên ông càng học giỏi, học kết hợp với lao động, vui chơi giải trí.
Lương Thế Vinh - Vị trạng nguyên đa tài
Chưa đầy 20 tuổi, Lương Thế Vinh đã nổi tiếng khắp vùng Sơn Nam. Năm 23 tuổi, đời vua Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ tư (1463), ông đỗ trạng nguyên khoa Qúy Mùi.
Cuộc đời 32 năm làm quan, trạng nguyên Lương Thế Vinh giữ nhiều vị trí quan trọng và đều ở Viện hàn lâm, trải thăng đến chức Hàn lâm Thị thư chưởng Hàn lâm viện sự - đứng đầu Viện hàn lâm.
Lương Thế Vinh còn có biệt tài ngoại giao, được vua giao trọng trách soạn thảo văn từ bang giao và đón tiếp sứ thần nước ngoài. Ông còn dạy học ở Quốc Tử Giám, Sùng Văn Quán, Tú Lâm Cục. Trạng nguyên Lương Thế Vinh am hiểu sâu sắc về âm nhạc và hát trèo. Cùng với Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận soạn thảo 2 bộ “Đồng văn” và “Nhã nhạc” dùng trong quốc lễ và triều hội.
Về văn thơ, Lương Thế Vinh cũng có rất nhiều đóng góp. Ông giữ chức Sái phu trong hội thơ Tao Đàn của vua Lê Thánh Tông, là người chuyên phê bình, sửa chữa thơ trong hội, đã có nhiều lần ngâm họa với vua Lê như bài Tướng sĩ nhớ nhà, Động Lục Vân.
Lương Thế Vinh là người trọng thực học, thích mở mang kinh tế nên ông đã dạy người dân làng Hương nghề thuốc bắc, thuốc nam chữa bệnh cứu người. Khuyến khích mở nhiều chợ để người dân buôn bán, trao đổi hàng hóa.
Trạng nguyên Lương Thế Vinh là người yêu nước, thương dân, luôn mong cho đất nước thanh bình, dân ấm no, triều đình và dân cùng lo việc nước. Cuối đời, trạng nguyên về trí sĩ tại quê nhà. Ngày 26/8 năm Bính Thìn (1496) trạng nguyên Lương Thế Vinh mất tại quê nhà, thọ 55 tuổi. Hình ảnh của ông vẫn còn sống mãi trong tâm thức người dân Việt thông qua các giai thoại, truyền thuyết về cuộc đời, sự nghiệp và những đóng góp to lớn của ông với dân tộc, đất nước.
Lương Thế Vinh là người yêu nước, thương dân
Nhà bác học Lê Quý Đôn (thế kỷ XVIII) đã hết lời ca ngợi Lương Thế Vinh, đánh giá ông là con người có tài kinh bang tế thế, một con người “tài hoa danh vọng vượt bậc”
2. Những đóng góp của trạng nguyên Lương Thế Vinh
2.1. Hơn 30 năm ở chốn quan trường
Lương Thế Vinh còn được gọi là Trạng Lường vì ông rất giỏi tính toán, đo lường. Sách “Thần đồng xưa của nước ta” có viết, tương truyền, thuở nhỏ có lần chơi cùng chúng bạn dưới gốc cây cổ thụ, cả nhóm thách đố nhau làm sao để biết cây cao bao nhiêu. Một số cho rằng chỉ có cách trèo lên ngọn cây rồi dùng dây thòng xuống đất đo còn Lương Thế Vinh nói không cần.
Lương Thế Vinh đã lấy chiếc gậy đo xem dài ngắn bao nhiêu, dựng gậy lên mặt đất và đo chiều dài bóng gậy. Sau đó, ông đo bóng cây, tính nhẩm là tìm ra chiều cao của cây. Bọn trẻ không tin liền dùng dây thừng nối lại, buộc hòn đá phía dưới rồi trèo lên ngọn cây thả dây thừng xuống. Kết quả đúng như Trạng Lường đã tính trước đó. Cách tính chiều cao cây của Lương Thế Vinh được các học sinh áp dụng cho đến ngày nay.
Học giỏi có tiếng, Lương Thế Vinh tham dự khoa thi Qúy Mùi và đỗ trạng nguyên. Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép năm đó có 4400 người dự thi, lấy đỗ 44 người. Phấn khởi trước thắng lợi của khoa thi khi mới lên ngôi, vua Lê Thánh Tông đã ban lá cơ khoa tự tay đề ba vị khoa khôi thành bài thơ: Trạng nguyên Lương Thế Vinh/ Bảng nhãn Nguyễn Đức Trinh/ Thám hoa Quách Đình Bảo/ Thiên hạ cộng tri danh.
Lương Thế Vinh đỗ trạng nguyên năm Qúy Mùi
Sau khi đỗ đạt, ông làm quan 32 năm, nổi tiếng thanh liêm, chính trực; làm việc tại Viện hàn lâm và được thăng đến chức cao nhất trong viện. Lương Thế Vinh thường khuyên vua chọn người hiền tài, đặt quan chức để “vì dân mà làm việc”, nhà vua và triều đình phải “đồng tâm nhất thể”; đồng thời ông cũng khuyên vua phải xử tội quan sai.
Trạng nguyên Lương Thế Vinh còn được giao việc soạn sớ biểu quan trọng liên quan đến ngoại giao với nhà Minh. Trong lần làm sứ nhà Thanh, Chu Hy đã thán phục trước tài tính toán của ông. Lần đó, Chu Hy yêu cầu ông cân trọng lượng của con voi Trạng Lường đã đưa voi lên thuyền rồi đánh dấu mép nước bên thuyền. Tiếp đó, ông ra lệnh đổ đá xuống thuyền cho đến khi thuyền chìm đến đúng dấu cũ. Việc còn lại là đưa từng viên đá lên cân và cộng kết quả.
Trạng Lường tính trọng lượng của voi
Mặc dù thán phục trước tài năng tính toán của Lương Thế Vinh nhưng Chu Hy vẫn tiếp tục đố ông đo bề dày của một tờ giấy xé ra từ quyển sách. Vị quan liền trả lời chỉ cần đo bề dày của cuốn sách rồi chia đều cho số trang. Lúc này, sứ giả nhà Thanh thốt lên rằng “Nước Nam quả có lắm người tài”.
Ngoài tham gia việc triều chính, Lương Thế Vinh còn dạy học ở Quốc Tử Giám, Sùng Văn Quán, Tú Lâm cục - những trường cao cấp đào tạo nhân tài cho đất nước lúc bấy giờ.
2.2. Quan điểm giáo dục “không giống ai” của thầy giáo có nhiều trò giỏi
Tác giả Nguyễn Huy Thắng viết trong cuốn “Những người thầy trong sử Việt”: Lương Thế Vinh là người thầy khác mọi thầy. Tác giả cho rằng, quan điểm giáo dục của ông không giống ai. Bằng kinh nghiệm, Lương Thế Vinh có chủ trương học trò cần học tập chuyên tâm nhưng cũng cần phải kết hợp với giải trí, gần gũi với nhân dân, hòa mình với thiên nhiên, tìm mọi cách vận dụng kiến thức vào đời sống.
Trong các chế, biểu dâng lên vua, ông nhiều lần đề xuất cải cách việc học hành, thi cử, đưa việc học xuống tận thôn dân, không ưu đãi quan lại đương chức trong việc thi cử để chọn đúng người tài, quan tâm đến việc dạy đạo đức.
Với quan niệm “Thần cơ diệu toán vạn niên sự” (ai tính toán giỏi là người thầy muôn đời), trạng nguyên Lương Thế Vinh đã dành tâm huyết biên soạn cuốn Đại thành toán pháp. Đại thành toán pháp là cuốn sách toán học cổ, bằng chữ Nôm, nói về kiến thức số học, có bảng cửu chương, phép tính nhân, phép bình phương (khai căn), đồng phân (chia đều); phương pháp đo lường bóng (phương pháp tam giác đồng dạng); hệ thống đo lường (cách cân, đong, đo, đếm...); cách đo điền, đo diện tích hình vuông, chữ nhật, tam giác, hình tròn,...
Ở mỗi phương pháp, ông đều đề một bài thơ cho người đọc dễ nhớ, dễ thuộc. Chẳng hạn như khi dạy cách tính diện tích hình thang, ông viết: Tam giác bị cụt đầu/ Diện tích tính làm sao/ Cạnh trên cạnh dưới cộng vào/ Đem nhân với nửa bề cao khắc thành.
Ngoài viết sách toán, Trạng Lường còn là tác giả của cuốn “Hý phường phả lục” nêu ra những nguyên tắc có tính lý luận về nghệ thuật biểu diễn, diễn viên, múa hát, đánh trồng.
Trạng nguyên Lương Thế Vinh từng dạy học ở Quốc Tử Giám
Trong quãng thời gian dạy học, Lương Thế Vinh có nhiều học trò đỗ đạt cao như Trần Tất Đạt - tiến sĩ năm 1469, Trần Bích Hoành - thám hoa năm 1478, Trần Xuân Vinh - tiến sĩ năm 1499, Lương Đắc Bằng - thầy của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Với quan điểm giáo dục “không giống ai” và những đóng góp to lớn, Lương Thế Vinh được người đời ghi nhận. Nhiều đường phố, trường học trên cả nước đặt theo tên của người thầy giáo mẫu mực này.
2.3. Phát minh ra bàn tính
Thời bấy giờ, các công cụ tính toán còn nghèo nàn, chủ yếu sử dụng hai bàn tay bằng cách “bấm đốt ngón tay”. Nhiều người còn dùng một sợi dây với những nút thắt làm công cụ tính toán. Trên sợi dây dài, cộng thêm một đơn vị thì thắt thêm một nút, trừ đi một đơn vị thì cởi một nút. Đi vay một quan tiền hay một đấu thóc thì thắt một nút, trả nợ một quan tiền hay đấu thóc thì tháo một nút,...
Người ta cũng sử dụng những đốt xương sống của súc vật, xâu vào một sợi dây làm công cụ tính toán. Sợi dây được gập lại, khi muốn cộng hay trừ thì đưa các nút chạy qua chạy lại hai phần sợi dây.
Trạng nguyên Lương Thế Vinh đã dành nhiều thời gian để suy nghĩ sáng chế ra công cụ tính toán thuận lợi hơn. Cuối cùng, ông đã sáng chế ra bàn tính gẩy - chiếc bàn tính đầu tiên của Việt Nam. Ban đầu, ông nặn những hòn bi bằng đất có khoan lỗ ở giữa, phơi khô rồi sâu vào cái đũa. Sau đó ông làm 2 xâu việc tính toán thuận lợi hơn. Tiếp đó, ông làm nhiều xâu hơn, buộc với nhau thành một bàn tính.
Lương Thế Vinh là người phát minh ra bàn tính
Dần dần, Lương Thế Vinh cải tiến từng viên tính bằng đất thành các đốt trúc ngắn và sau đó ông khắc những viên tính bằng gỗ, sơn màu đẹp mắt. Về sau, khi bàn tính gẩy của Trung Quốc du nhập vào nước ta thì hình dáng không khác gì so với bàn tính của Lương Thế Vinh. Đáng phục hơn là quy tắc tính toán cộng, trừ, nhân, chia cũng đều được Lương Thế Vinh nghĩ ra trước đó.
2.4. Tác giả của nhiều tác phẩm thơ chữ Nôm
Lương Thế Vinh còn được biết đến là tác giả của nhiều tác phẩm thơ chữ Nôm. Tiêu biểu nhất là cuốn “Thập giới Cô hồn Quốc Ngữ văn” hay còn gọi là “Phật kinh Thập giới”. Đây là áng văn Nôm cổ gồm đoạn mở đầu và 10 đoạn nói về 10 giới cô hồn: thiền tăng, đạo sĩ, quan liêu, nho sĩ, thiên văn - địa lý, lương y, tướng quân, hoa nương, thương cổ, đãng tử. Mỗi đoạn trong bài tán và kết thúc bài kệ 8 câu. Vì sáng tác Phật kinh Thập giới, Lương Thế Vinh bạn bè trang lứa chê cười và ông không được ghi tên trong văn miếu Khổng Tử.
Khi Lương Thế Vinh mất, vua Lê Thánh Tông đã viết một bài thơ khóc Trạng:
Chiếu thư thượng đế xuống đêm qua
Gióng khách chương đài kiếp tại nhà
Cẩm tú mấy hàng về động ngọc
Thánh hiền ba chén ướt hồn hoa
Khí thiên đã lại thu sơn nhạc
Danh lạ còn truyền để quốc gia
Khuất ngón tay than tài cái thế
Lấy ai làm Trạng nước Nam ta
Trên đây là các thông tin về trạng nguyên Lương Thế Vinh, hy vọng sẽ giúp ích với bạn. Lương Thế Vinh là một người tài năng, đức độ, là tấm gương sáng ngời để các bạn trẻ noi gương học tập. Những đóng góp của ông vẫn được lưu giữ cho đến ngày nay.