Lôi Phong - Sản xuất và bán lẻ đồ thờ cúng như bàn thờ, đèn thờ, khung ảnh thờ, bàn thờ, tượng phật

Hồ Chí Minh

Chủ Nhật, 05/11/2023
Trần Xuân Bách

Hồ Chí Minh là vị anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất, lãnh tụ vĩ đại - thiên tài của Đảng và Nhân dân Việt Nam. Người đã dâng “trọn” cuộc đời minh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, góp phần to lớn đối với sự nghiệp cách mạng Nhân dân vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ của xã hội; vì hòa bình và công lý trên thế giới.

1. Tiểu sử về Chủ tịch Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890 ở làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học lấy tên là Nguyễn Tất Thành, khi hoạt động cách mạng lấy tên Nguyễn Ái Quốc và có nhiều bút danh, bí danh khác.

Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam

Người sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước, lớn lên trong một địa phương có truyền thống yêu nước, anh dũng chống giặc ngoại xâm. Sống trong hoàn cảnh đất nước chìm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Thời niên thiếu, Người đã chứng kiến nỗi khổ cực của đồng bào và các phong trào đấu tranh chống thực dân. Vậy nên, Người sớm có ý chí đánh đuổi thực dân, giành độc lập cho đất nước, dân tộc; mang tới sự tự do, hạnh phúc cho đồng bào.

Với tình yêu nước nồng nàn, thương dân sâu sắc, sự nhạy bén về chính trị, Nguyễn Tất Thành bắt đầu suy nghĩ về nguyên nhân thành bại của các phong trào yêu nước lúc bấy giờ, quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc.

Từ năm 1911, Người đã ra đi tìm đường cứu nước ở nước ngoài, bắt đầu tìm thấy con đường cách mạng đúng đắn, góp phần quan trọng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một chiến sĩ cộng sản quốc tế, một nhà ngoại giao tài ba trong lịch sử nhân loại.

2. Hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

2.1. Hoạt động cách mạng ở nước ngoài (từ năm 1911 - 1941)

Ngày 6/5/1911, với tên gọi mới Văn Ba, Người đã lên tàu Amiran Latusơ Tơrêvin, rời bến cảng nhà Rồng đi Mác xây (Pháp). Với khát vọng giành độc lập, tự do cho dân cho nước, Người đã buôn ba khắp nơi, vừa lao động, vừa học tập, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm từ các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới. Qua đó, Người hiểu rõ cội nguồn đau khổ của nhân dân lao động đó là sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản đế quốc, hình thành ý thức giai cấp sâu sắc.

Người rời bến cảng nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước năm 1911

Người rời bến cảng nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước năm 1911

Từ năm 1912 -1917, Nguyễn Tất Thành đến nhiều quốc gia ở Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi sống hòa mình với người dân lao động. Người thông cảm sâu sắc cuộc sống cực khổ của nhân dân lao động và các dân tộc thuộc địa trên thế sớm. Người sớm nhận ra cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc Việt Nam là một bộ phận của cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới.

Năm 1917, Cách mạng tháng Mười Nga thành công và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản đã đưa Nguyễn Ái Quốc đến gần với Chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đây, Người đã biết đó là con đường duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Cuối năm 1917, Người tư Anh trở lại Pháp để tiếp tục hoạt động trong phong trào Việt kiều và phong trào của công dân Pháp.

Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi tới Hội nghị Versailles bản yêu sách đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam và quyền tự do cho nhân dân các nước thuộc địa.

Nguyễn Ái Quốc tới dự Hội nghị Versailles

Nguyễn Ái Quốc tới dự Hội nghị Versailles

Dưới ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa, tháng 12/1920 Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp và bỏ phiếu tán thành Đảng gia nhập Quốc tế III, Quốc tế Cộng sản. Người trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Từ một người yêu nước trở thành một người cộng sản, Người khẳng định con đường cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới đó chính là con đường của chủ nghĩa Mác Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại.

Nguyễn Ái Quốc và Báo Người Cùng Khổ

Nguyễn Ái Quốc và Báo Người Cùng Khổ

Năm 1921, cùng với một số người yêu nước ở thuộc địa Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa. Tháng 4/1922, Hội ra báo Người Cùng Khổ để đoàn kết, tổ chức, hướng dẫn phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Nhiều bài báo của Người đăng trên Người cùng khổ, Đời sống thợ thuyền,...Đặc biệt, tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp đã lên án mạnh mẽ chế độ thực dân, thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân các nước thuộc địa. Tất cả các bài viết của Người đều được bí mật chuyển về nước, lưu truyền trong mọi tầng lớp nhân dân.

Ngày 30/6/1923, Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô và bắt đầu thời kỳ hoạt động, nghiên cứu về chủ nghĩa Mác - Lênin, về chế độ xã hội trên đất nước Nga. Tại Đại hội lần thứ I Quốc tế Nông dân (10/1923), Người được bầu vào Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân.

Năm 1924, Người dự Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản và được cử làm cán bộ Ban phương Đông của Quốc tế Cộng sản. Đồng thời là Ủy viên Đàn chủ tịch Quốc tế Nông dân, Nguyễn Ái Quốc được giao nhiệm vụ theo dõi và chỉ đạo phong trào cách mạng ở một số nước Châu Á.

Nguyễn Ái Quốc tới Liên Xô tiếp tục tìm đường cứu nước

Nguyễn Ái Quốc tới Liên Xô tiếp tục tìm đường cứu nước

Năm 1925, tại Quảng Châu (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông, sáng lập tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, ra báo Thanh Niên để tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin về trong nước. Bên cạnh đó, mở các lớp đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.

Tháng 5/1927, Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu tới Matxcova (Liên Xô) tới Berlin (Đức), đi Brussel (Bỉ) để tham dự phiên họp mở rộng của Đại hội đồng Liên đoàn Chống chiến tranh đế quốc rồi đi Ý và về Châu Á.

Tháng 7/1928 đến 11/1929, Người hoạt động trong phong trào vận động Việt kiều yêu nước ở Thái Lan, tiếp tục chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ngày 3/2/1930, tại Cửu Long gần Hương Cảng (Hồng Kông), Người đã chủ trì Hội nghị thành lập Đảng. Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam, lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành giải phóng dân tộc.

Hội nghị thành lập Đảng được tái hiện bằng tranh vẽ

Hội nghị thành lập Đảng được tái hiện bằng tranh vẽ

Sau khi được thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo phong trào cách mạng 1930 - 1931, đỉnh cao là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh được coi là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của Cách mạng Tháng Tám 1945.

Tháng 6/1931, Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Anh bắt giam tại Hồng Kông. Mùa xuân năm 1933, Người được trả tự do.

Từ năm 1934 - 1938, Người nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu các vấn đề về dân tộc và thuộc địa tại Matxcova. Kiên trì với con đường xác định cho cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục theo dõi và chỉ đạo phong trào đấu tranh cách mạng trong nước.

Tháng 10/1938, Người rời Liên Xô về Trung Quốc để bắt liên lạc với tổ chức Đảng, chuẩn bị về nước.

2.2. Hoạt động cách mạng ở Việt Nam

Sau hơn 30 năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, năm 1941, Người về nước, triệu tập Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần VIII, quyết định đường lối đánh Pháp, đuổi Nhật; gấp rút xây dựng lực lượng vũ trang, đẩy mạnh phong trào cách mạng quần chúng, chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền; thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (Mặt trận Việt Minh sau này).

Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước hoạt động cách mạng

Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước hoạt động cách mạng

Tháng 8/1942, Người lấy tên là Hồ Chí Minh, đại diện cho Mặt trận Việt Minh và Phân hội Việt Nam, thuộc Hiệp hội Quốc tế chống xâm lược đã sang Trung Quốc để tìm kiếm sự liên minh từ quốc tế, cùng nhau phối hợp để chống phát xít trên chiến trường Thái Bình Dương. Người bị chính quyền của Tưởng Giới Thạch bắt giam trong các nhà lao của tỉnh Quảng Tây. Trong khoảng thời gian 13 tháng tù đày, Hồ Chí Minh đã viết tập thơ “Ngục trung nhật ký” (Nhật ký trong tù) với 133 bài thơ chữ Hán.

Nhật ký trong tù là tác phẩm tiêu biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Nhật ký trong tù là tác phẩm tiêu biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Tháng 9/1943, Người được trả tự do.

Tháng 9/1944, Người trở về căn cứ Cao Bằng. Tháng 12/1944, Người chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Tháng 5/1945, Hồ Chí Minh rời Cao Bằng về Tân Trào (Tuyên Quang). Tại đây, theo đề nghị của Người, Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội Quốc dân đã quyết định họp để tổng khởi nghĩa. Đại hội Quốc dân đã bầu ra Uỷ ban Giải phóng dân tộc Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh là chủ tịch. Thay mặt Chính phủ lâm thời, Người phát lệnh Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong nước.

Người phát lệnh Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong nước

Người phát lệnh Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong nước

Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn thể nhân dân, dân tộc Việt Nam nhất tề đứng lên Tổng khởi nghĩa vũ trang, giành chính quyền về tay nhân dân lao động. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tuyên bố trước nhân dân cả nước và nhân dân thế giới về quyền độc lập của dân tộc Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập

Tháng 9/1945, thực dân Pháp câu kết với Mỹ, Anh và lực lượng phản động Quốc dân Đảng trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Quân đội Pháp mở rộng đánh chiếm Miền Nam, lấn dần từng bước, kéo quân xâm chiếm Miền Bắc, âm mưu xóa bỏ Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa.

Ngày 9/1/1946, cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa diễn ra. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I, Người được bầu làm Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp kháng chiến.

Tháng 12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân kháng chính. Người cùng với Trung ương Đảng lãnh đạo toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược với tinh thần “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Người khởi xướng phong trào thi đua yêu nước cùng với Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính để từng bước giành thắng lợi.

Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (1951) Người được bầu làm Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giành chiến thắng, kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ 1954.

Chiến thắng Điện Biên Phủ

Chiến thắng Điện Biên Phủ

Tháng 7/1954, với thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc được giải phóng, miền Nam tiếp tục kháng chiến chống Mỹ. Lúc này, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra 2 nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.

Đại hội lần thứ III của Đảng năm 1960 đã bầu lại Chủ tịch Hồ Chí Minh làm chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Quốc hội khóa II, III đã bầu người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo cuộc kháng chiến vĩ đại của nhân dân Việt Nam chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, lãnh đạo sự nghiệp cải cách xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới hoạt động sản xuất nông nghiệp

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới hoạt động sản xuất nông nghiệp

Năm 1964, đế quốc Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, đánh phá miền Bắc Việt Nam. Người đã động viên toàn thể nhân dân Việt Nam cùng nhau vượt qua giai đoạn khó khăn, quyết tâm đánh đuổi giặc Mỹ xâm lược. Người nói “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá. Song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do! Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.

Từ năm 1965 - 1969, Người cùng với Trung ương Đảng, lãnh đạo nhân dân Việt Nam thực hiện sự nghiệp cách mạng trong điều kiện xây dựng và bảo vệ miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh mất năm 1969

Chủ tịch Hồ Chí Minh mất năm 1969

Ngày 2/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh mất, 79 tuổi. Chủ tịch Hồ Chí Minh mất đã để lại niềm tiếc thương vô hạn trong đồng bào cả nước và bạn bè quốc tế. Ngày 3/9/1969, Bộ Chính trị quyết định triệu tập Hội nghị bất thường của Ban Chấp hành Trung ương Đảng để họp bàn và quyết định tổ chức Lễ Quốc tang với nghi thức trọng thể nhất. Đồng thời công bố Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ngày 9/9/1969, Lễ Quốc tang Chủ tịch Hồ Chí Minh được cử hành trang trọng tại Quảng trường Ba Đình. Hơn 15 vạn người đã thay mặt cho nhân dân cả nước bao gồm lực lượng vũ trang, công nhân, nông dân,...tham gia lễ truy điệu vĩnh biệt Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh mất để lại niềm tiếc thương vô hạn đối với người dân Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh mất để lại niềm tiếc thương vô hạn đối với người dân Việt Nam

Trước khi mất, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho nhân dân Việt Nam bản Di chúc lịch sử. Người viết “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.

Thực hiện Di chúc của Người, toàn thể nhân dân Việt Nam đã đoàn kết một lòng đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng máy bay B52 của Mỹ, buộc chính phủ Mỹ phải ký hiệp định Paris ngày 27/1/1973, chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân đội và chư hầu ra khỏi Việt Nam.

Mùa xuân năm 1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, nhân dân Việt Nam đã hàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, non sông thu về một mối; thực hiện di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Xe tăng tiến vào Dinh độc lập

Xe tăng tiến vào Dinh độc lập

Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Người đã vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, sáng lập ra Đảng Mác - Lênin Việt Nam, sáng lập Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, sáng lập lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, sáng lập nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kết hợp chặt chẽ cách mạng Việt Nam với cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, dân chủ, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Người là tấm gương sáng về đạo đức cao cả, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư cùng lối sống giản dị, khiêm tốn.

Năm 1987, tại kỳ họp lần thứ 24, tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã ra Nghị quyết tôn vinh Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam và nhà văn hóa kiệt xuất”

Chủ tịch Hồ Chí Minh sống mãi trong lòng người dân Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh sống mãi trong lòng người dân Việt Nam

Cả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh dành trọn cho nhân dân, sống một đời trong sáng cao đẹp của người cộng sản vĩ đại, anh hùng kiệt xuất, chiến sĩ quốc tế lỗi lạc đã đấu tranh không mệt mỏi cho Tổ quốc, nhân dân vì độc lập, tự do của các dân tộc bị áp bức, vì hòa bình và công lý trên thế giới.

Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập quốc tế, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và nhân dân, luôn soi sáng con đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

Viết bình luận của bạn
Danh mục