0963937586
Tư vẫn miễn phí 24/24
Ship code
Trên phạm vi toàn quốc
Thanh toán
Khi nhận hàng tại Hà Nội
Góc tư vấn

Đền Đô

Đền Đô không chỉ là nơi thờ 8 bậc đế vương nhà Lý mà còn là nơi hội tụ tinh hoa văn hóa thờ Mẫu. Cùng với đó là không gian kiến trúc độc đáo, bề thế, hài hòa với thiên nhiên

Đền Đô là một trong những ngôi đền linh thiêng nổi tiếng ở Bắc Ninh. Đền thờ 8 vị vua thời Lý với không gian kiến trúc độc đáo mang đậm nét văn hóa của người Việt. Có thể bạn chưa biết, đền Đô gắn liền với sự kiện lịch sử quan trọng đó là chiếu dời đô, mở thời kỳ độc lập tự do cho nước Việt trước giặc phương Bắc. Cùng tìm hiểu chi tiết trong nội dung dưới đây của loiphong.vn

1. Đền Đô ở đâu? Hướng dẫn di chuyển đến đền Đô Bắc Ninh

Đền Đô còn có tên gọi khác là đền Lý Bát Đế, được xây dựng từ thế kỷ thứ 11. Đền Đô có địa chỉ tại làng Đình Bảng, xã Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Tổng diện tích xây dựng của đền Đô hơn 31.000m2, gồm có 21 công trình lớn nhỏ khác nhau, đền thờ chính đặt ở vị trí trung tâm. Đền thờ 8 vị vua nhà Lý thu hút rất đông du khách đến thăm quan, dâng hương hàng năm.

Đền Đô ở Bắc Ninh

Đền Đô ở Bắc Ninh

Đền Đô cách Hà Nội khoảng 20km nên rất dễ dàng di chuyển, có 3 cách di chuyển đến đền Đô Bắc Ninh mà bạn có thể lựa chọn, đó là:

Cách 1: Xuất phát từ cầu Chương Dương, bạn đi theo lộ trình cầu Chương Dương - đường Nguyễn Văn Cừ - đường Hà Huy Tập - đường Trần Phú (Từ Sơn). Khi đến Từ Sơn bạn sẽ thấy biển chỉ dẫn rẽ bên phải, đi thẳng một đoạn nữa là sẽ đến đền Đô.

Cách 2: Từ cầu Vĩnh Tuy, bạn di chuyển đến đường 5 rồi sẽ vào QL1A xuống Phủ Chẩn. Tại đây bạn rẽ trái theo hướng bảng chỉ dẫn là đến đền Đô.

Cách 3: Nếu bạn không có phương tiện cá nhân thì có thể lựa chọn xe bus để đến đền Cổ Pháp. Có các tuyến xe bus từ Hà Nội đến đền Đô đó là 10, 54, 203.

2. Lịch sử đền Đô Bắc Ninh

Theo lịch sử ghi chép lại, tháng 2/1010, sau khi lên ngôi vua Lý Công Uẩn đã trở về thăm quê hương Đình Bảng. Tại đây, vua Lý Công Uẩn đã dừng thuyền rồng để đi thăm các bậc kỳ lão, yết lăng Thái Hậu. Dân làng đã xây dựng một ngôi đình lớn để làm ngơi nghênh tiếp nhà vua. Sau khi vua Lý Công Uẩn mất, con trai ông là Lý Thái Tông lên ngôi.

Trong một lần về quê Đình Bảng giỗ cha, ông đã ra lệnh xây dựng đền Đô làm nơi phụng cha trên nền ngôi đình cũ và nơi đây trở thành nơi thờ phụng các vị vua nhà Lý sau này. Ngày 3/3/1030 đền Đô được khởi công xây dựng.

Lịch sử đền Đô

Lịch sử đền Đô

Đền Đô là mảnh đất đắc địa, “địa linh nhân kiệt xuất nhập hanh thông”. Theo thiền sư Lý Vạn Hạnh thì đó là khu đất hội tu linh thiên khí, trước đền là khu rừng Báng và dòng sông Tiêu Tương chảy quanh co.

Sau này, đền được trùng tu nhiều lần qua các triều đại Lý, Trần, Lê. Lần trùng tu và mở rộng lớn nhất vào năm thứ 3 niên hiệu Hoằng Định của vua Lê Kính Tông năm 1602 với quy mô 21 hạng mục công trình, khắc bia ghi lại công đức của các vị vua nhà Lý.

Năm 1952, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam chúng đã dội bom, phá hủy toàn bộ ngôi đền. Đến năm 1989, đền Đô được khởi công xây dựng lại theo kiến trúc ban đầu. Và đó chính là thành quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đã nghiên cứu các dấu tích, tài liệu lưu trữ còn sót lại về ngôi đền. Nhìn chung, quần thể di tích đền Đô hiện nay giống với kiến trúc cũ.

3. Kiến trúc đền Đô

Kiến trúc đền Đô là sự kế thừa của phong cách cung đình và phong cách dân gian. Hai phong cách kiến trúc được kết hợp hài hòa với thiên nhiên tạo nên một không gian độc đáo, đẹp mắt. Khi di tích đền Đô có diện tích khá rộng nhưng được phân chia thành các khu riêng biệt như hậu cung, đại điện, thủy đình, văn bia,...

Kiến trúc của đền Đô

Kiến trúc của đền Đô

Bên cạnh đó, nơi đây còn quy tụ nghệ thuật kiến trúc đặc sắc như nghệ thuật điêu khắc đá, nghệ thuật điêu khắc gỗ, nghệ thuật tạc tượng thờ,...Từng chi tiết được chạm khắc tỉ mỉ, hệ thống mái đao, trụ cột đều đạt tới mức độ tinh xảo, tuyệt mỹ.

Đền Đô có 21 hạng mục công trình lớn nhỏ, chia thành 2 khu vực đó là:

3.1. Khu vực nội thành

Tổng diện tích khu vực nội thành 4.320m2, thiết kế theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Khu vực nội thành gồm có Ngũ Long Môn, chính điện, nhà chuyền bồng và nhà bia.

Ngũ Long Môn chính là cổng vào nội thành, sở dĩ có tên gọi như vậy là do trên hai cánh cổng được chạm khắc năm con rồng. Trung tâm của khu nội đó là chính điện. Chính điện gồm có phương đình (hay còn gọi là nhà vuông), nhà Tiền tế và Cổ pháp điện.

Ngũ long môn ở đền Đô

Ngũ long môn ở đền Đô

Phương đình rộng khoảng 70m2, gồm 3 gian, 8 mái. Nhà Tiền tế rộng 220m2 gồm có 7 gian. Đây là nơi thờ vua Lý Thái Tổ, bên trái điện có treo tấm bảng “Chiếu dời đô” của vua Lý Thái Tổ với 214 chữ, tương ứng với 214 năm trị vị của nhà Lý. Bên phải treo tấm bảng ghi bài thơ “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”. Gian giữa tiền tế đặt tượng hai ông áo đen cấm vệ quân triều Lý. Hai bên cửa ra vào có đôi ngựa bạch thờ và ngựa hồng được làm từ gỗ mít có đủ yên cương, áo giáp, dây cương đồng và bộ nhạc lục lạc.

Chính điện đền Đô thờ vua Lý Thái Tổ có hai chú voi nằm phủ phục hai bên

Chính điện đền Đô thờ vua Lý Thái Tổ có hai chú voi nằm phủ phục hai bên

Cổ Pháp điện có 7 gian, rộng khoảng 180m2. Đây là nơi đặt ngai thờ, bài vị của 8 vị vua nhà Lý. Gian giữa thờ vua Lý Công Uẩn và Lý Thái Tông, ba gian bên trái thờ vua Lý Nhân Tông, Lý Huệ Tông, Lý Anh Tông còn ba gian bên phải thờ vua Lý Thánh Tông, Lý Cao Tông, Lý Thần Tông.

Nơi thờ tự 8 vị vua thời nhà Lý

Nơi thờ tự 8 vị vua thời nhà Lý

Kiến trúc mái chồng như những cánh hoa xòe

Kiến trúc mái chồng như những cánh hoa xòe

Khu vực nhà chuyền bồng được xây dựng theo kiến trúc chồng diêm 8 mái, 8 đao; bao gồm nhà tiền tế, nhà để kiệu thờ, nhà để ngựa thờ. Phía Đông đền Đô có nhà bia - nơi đặt Cổ Pháp Điện Tạo Bi. Tấm bia này do tiến sĩ Phùng Khắc Khoan biên soạn, được khắc dựng năm 1605, có chiều dài 17cm, rộng 103cm và cao 190cm. Trên bia ghi lại sự kiện nhà Lê dựng lại đền, ghi công đức của các vị vua nhà Lý.

Nhà bia ở phía Đông đền Đô

Nhà bia ở phía Đông đền Đô

Đặc biệt, đền Đô còn lưu giữ cuốn thư “Chiếu dời đô” bằng gốm Bát Tràng lớn nhất Việt Nam. Bức cuốn thư này nằm ở bên phải tiền đường cao 3,5 mét, rộng hơn 8 mét được đắp bằng gốm sứ Bát Tràng men xanh.

Bức cuốn thư “Chiếu dời đô” bằng gốm Bát Tràng

Bức cuốn thư “Chiếu dời đô” bằng gốm Bát Tràng

3.2. Khu vực ngoại thành

Bao gồm các công trình như thủy đình, nhà văn chỉ, nhà võ chỉ, nhà chủ tế, nhà khách, nhà kho, đền vua Bà. Thủy đình được xây dựng trên hồ bán nguyệt, rộng 5 gian có kiến trúc chồng diêm 8 mái, 8 đao cong; xưa kia các chức sắc thường ngồi xem biểu diễn rối nước. Hồ bán nguyệt thông với ao Cả trên, ao Cả dưới, sông Tiêu Tương xưa. Trong thời kỳ Pháp thuộc, thủy đình từng được Ngân hàng Đông Dương lựa chọn là hình ảnh in trên giấy bạc năm đồng vàng.

Thủy đình trong đồng tiền giấy ngày xưa

Thủy đình trong đồng tiền giấy ngày xưa

Nhà văn chỉ gồm có 3 gian, rộng 100m2 được thiết kế theo kiến trúc mái chồng diêm. Đây là nơi thờ những quan văn có công giúp nhà Lý như Tô Hiến Thành, Lý Đạo Thành. Nhà võ có kiến trúc tương tự như nhà văn chỉ, nơi đây thờ quan võ đã có công giúp nhà Lý như Lý Thường Kiệt, Lê Phụng Hiểu, Đào Cam Mộc.

Hình ảnh rồng được điêu khắc tinh xảo

Hình ảnh rồng được điêu khắc tinh xảo

4. Lễ hội đền Đô

Lễ hội đền Đô là một trong những lễ hội lớn nhất ở Bắc Ninh, được tổ chức vào ngày 14, 15,16/3 âm lịch nhân kỷ niệm vua Lý Công Uẩn lên ngôi vua, ban “Chiếu dời đô”. Hàng năm, cứ đến mùa lễ hội, nhân dân Bắc Ninh và du khách thập phương đến đền Đô rất đông.

Lễ hội đền Đô diễn ra từ ngày 14 - 16/3 âm lịch

Lễ hội đền Đô diễn ra từ ngày 14 - 16/3 âm lịch

Lễ hội đền Đô bao gồm phần lễ và phần hội. Chiều ngày 14/3 âm lịch sẽ tổ chức lễ rước kiệu để tưởng nhớ công ơn Thánh Mẫu Minh Đức Hoàng Thái hậu Phạm Thị - người sinh ra vua Lý Thái Tổ.

Lễ rước gồm có 8 kiệu gỗ được trang hoàng lộng lẫy, rước từ đền Đô lên chùa Cổ Pháp để nghe tăng ni tụng kinh rồi rước về chỗ cũ. Kiệu của Lý Chiêu Hoàng không được rước mà được khiêng đặt trước điện thờ để bà nghênh đón kiệu của 8 vua.

Sau phần lễ sẽ là phần hội. Phần hội của đền Đô có nhiều trò chơi mang đậm văn hóa truyền thống của dân tộc như hát quan họ, đấu vật, chơi cờ người, chơi đu, thi nấu cơm,...

5. Đền Đô và hiện tượng “Bát Đế Vân Du - Long vân hội tụ”

Đến nay, vẫn chưa một ai có thể lý giải được hiện tượng “Bát Đế Vân Du” tại đền Đô Bắc Ninh. Bát Đế Vân Du là hiện tượng tám vầng mây “Long vân hội tụ” xuất hiện lúc 8 giờ sáng ngày 5/7/1998. Điều đặc biệt đó là ngày khởi lễ giỗ vua Lý Anh Tông - vị vua thứ  của vương triều nhà Lý, cha của hoàng tử Lý Long Trường.

Hiện tượng này cũng đã xuất hiện ở Hà Nội trong ngày tổ chức “Ngày hội non sông” hướng đến kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, khi nhân dân Đình Bảng chuẩn bị rước linh bài vua Lý Công Uẩn và “Chiếu dời đô” từ đền Đô ra Hà Nội.

“Đền Đô kiến trúc tuyệt vời/Thăng Long đẹp nhất, đẹp người ngàn năm”. Đền Đô được công nhận là khu di tích lịch sử - văn hóa năm 1991, năm 2014 nơi đây cùng với các khu lăng mộ của các vua nhà Lý được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt. Nếu có dịp đến Bắc Ninh bạn đừng quên ghé thăm khu di tích đền Đô nhé!